Danh mục lưu trữ: kỹ thuật trồng cây ăn quả

Kỹ Thuật Trồng Cam Quýt

Cam quýt có thể trồng được trên nhiều loại đất như đất phù sa ven sông, đất đồi, đất phù sa cổ, đất thung lũng ở các vùng núi.

Kỹ thuật trồng camChọn đất trồng cam quýt: Cam quýt có thể trồng được trên nhiều loại đất như đất phù sa ven sông, đất đồi, đất phù sa cổ, đất thung lũng ở các vùng núi… Các loại đất trên có tầng dày 80cm, thoát nước (nhẹ và xốp), mực nước ngầm dưới 1m, độ pH từ 5,5-7, độ dốc không quá 20-25%.

Cần có biện pháp chống xói mòn, bằng trồng cây che phủ giữa hàng (cỏ mềm, lạc hoặc một số cây họ đậu…).

Thời vụ trồng: ở các tỉnh phía Bắc, thời vụ trồng cam quýt là mùa xuân và mùa thu, nhưng tốt nhất là trồng vào mùa xuân, khi có mưa xuân tỷ lệ cây sống cao.

Nhu cầu về nước: ở các tỉnh miền núi phía Bắc, lượng mưa trung bình khá lớn 1500-2000mm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng mùa hè và mùa thu, do vậy, cần có biện pháp chống úng cho cây vào mùa mưa. Giai đoạn khô nhất trong năm lại trùng với giai đoạn ngủ nghỉ của cây, chuẩn bị cho sự phát triển của mầm hoa. Tuy nhiên, những năm khô hạn, cần tưới nước vào những thời điểm sau:

– Giai đoạn phát lộc xuân đến giai đoạn quả nhỏ;

– Giai đoạn quả đang lớn đến trước thu hoạch 1 tháng;

– Sau các đợt bón phân.

Chắn gió: Cần có hàng rào cây chắn gió bảo vệ cây để giảm thiệt hại về cơ giới và đảm bảo cho cây phát triển tốt. Hàng cây chắn gió còn có tác dụng hạn chế sự xâm nhập của sâu hại và lây lan của bệnh hại.

Phân bón:

Bón lót: Nhằm cung cấp lượng dinh dưỡng gồm các nguyên tố đa lượng (N, P, K, Ca), vi lượng (Cu, Zn, Mn, Mg…) cho đất trước khi trồng cây để cây sinh trưởng tốt.N: Đạm urê (45% N);P: Supe photphat (17% P205);K: Kali (63% K)

Tuổi cây Liều lượng (gam thương phẩm/cây)
1 năm Bón 2 tháng 1 lần, mỗi lần P = 150g; N = 35g và K = 20g
2 năm Bón 2 tháng 1 lần, mỗi lần P = 300g; N = 70g và K = 40g
Cây trong thời kỳ kinh doanh
Trước khi ra hoa Mầm hoa Quả lớn
N P K N K N K
3 200 450 100 130 100 130 100
4 300 600 150 300 150 300 150
5 600 1200 200 600 200 600 200
Từ năm thứ 6 800 1500 350 600 350 600 350
Bón duy trì: Nhằm đảm bảo độ phì cho đất và dinh dưỡng cho cây. Lượng phân bón tăng dần theo tuổi cây và căn cứ vào năng suất quả. Thời kỳ bón là giai đoạn cây có nhu cầu dinh dưỡng cao nhất.

Phân bón sâu vào đất bằng cách cuốc các rãnh nhỏ xung quanh tán cây, sau đó lấp nhẹ một lớp đất.

Làm cỏ, xới xáo: Xung quanh gốc vùng dưới tán cây phải luôn sạch sẽ, để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng và nước của cỏ với cây và giúp cho cây phát triển tốt. Có thể làm cỏ bằng tay, xới xáo nhẹ bằng dầm hoặc dùng thuốc trừ cỏ. Cũng có thể dùng rơm, rạ phủ xung quanh gốc để hạn chế cỏ mọc và giữ ẩm cho đất. Thời kỳ cây chưa khép tán, có thể trồng xen một số cây họ đậu giữa các hàng, hoặc duy trì cỏ ở độ cao 10cm so với mặt đất để tránh xói mòn.

Đốn tỉa:

Tác dụng: Nhằm điều chỉnh sinh trưởng của cây, tạo cây thông thoáng, đủ ánh sáng, cây sinh trưởng và phát triển tốt, hạn chế sâu bệnh, ra hoa đậu quả đều, cho năng suất và chất lượng quả cao.

Đốn tạo hình: Thực hiện ngay trong 2 năm đầu sau khi trồng. Vào lúc trồng hoặc sau khi trồng một thời gian, tiến hành cắt ngọn thân chính ở độ cao 70-80cm. Sau khi đốn lần 1, cây bị kích thích sẽ cho ra những mầm mới phát triển, chọn giữ lại 3-4 mầm phân bố đều xung quanh cây để tạo bộ khung chính cho cây.

Đốn duy trì: Đốn dọn cho cây thông thoáng, cắt bỏ những cành khô, cành tăm, cành bị sâu bệnh, cành gãy, cành tược của gốc ghép, tạo điều kiện để lá cây tiếp xúc với ánh sáng. Đây không phải là đốn tạo quả vì đối với cam quýt là không cần thiết.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh.
  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh
Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả.

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Cam Quýt

Cam quýt thích hợp ánh sáng tán xạ,do đó phải trồng cây che mát ven mép mương như tràm ,mãng cầu xiêm kỹ thuật trồng cây như sau

– Thời vụ trồng: Có thể trồng quanh năm,đầu hoặc cuối mùa mưa (nếu trồng trong mùa nắng mà đủ nước tưới cây sẽ phát triển tốt hơn và ít bị sâu bệnh tấn công).

– Khoảng cách trồng: Cây cam nên trồng khoảng cách 3mx4m; quýt 4mx4m,4mx5m.

– Đắp mô trồng: Đất làm mô có thể từ đất mặt ruộng, đất bãi bồi ven sông, mô trồng cao khoảng 20-40cm và đường kính ban đầu là 60-80cm.Trước khi trồng nên trộn tro trấu, phân chuồng hoai mục vào mô, xử lý đất bằng Furadan để trừ côn trùng.

– Trồng cây chắn gió và cây che mát. Cam quýt thích hợp ánh sáng tán xạ,do đó phải trồng cây che mát ven mép mương như tràm ,mãng cầu xiêm,…hoặc trồng giữa liếp như cóc, so đũa,…đồng thời phải trồng cây chắn gió như dừa, xoài, vông,…để hạn chế sự thiệt hại do gió bão, cũng như sự lây lang của côn trùng, mầm bệnh.

– Tủ gốc giữ ẩm: Đa số rễ hấp thu dinh dưỡng của cam quýt mọc cạn, nhiệt độ của đất vào mùa nắng cao, ảnh hưởng đến bộ rễ, do đó cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ (cách gốc 20cm), biện pháp nầy cũng tránh cỏ dại phát triển, khi cây cam quýt còn tơ có thể trồng xen hoa màu (bắp, đậu,k hoai).

– Mực nước trong mương: Cam quýt rất mẫn cảm với nước, vì vậy cần để mực nước trong mương cách mặt liếp 50-80cm.Trong mùa nắng nên để nước vô ra tự nhiên để rửa phèn và tích tụ phù sa.

– Vét bùn, bồi liếp: 
Khi cây trưởng thành, hàng năm hoặc 2 năm/lần tiến hành vét mương lấy 1 lớp sình mỏng 5cm đưa lên liếp để nhằm mục đích cung cấp thêm dinh dưỡng cho cây, đồng thời nâng cao tầng canh tác.

– Xiết nước: Hiện nay, ngoài biện pháp xiết nước để xử lý ra hoa cho quýt tiều, cam sành, chúng ta chưa có biện pháp nào hữu hiệu hơn, tuy nhiên có nhiều bất lợi là tuổi thọ có thể giảm.Vì vậy, để kéo dài thời kỳ kinh doanh của cây cam quýt, chúng tôi khuyến cáo thời gian xiết nước không nên quá 20 ngày.

+ Ưu điểm của xiết nước: Cây ra hoa đồng loạt, thuận lợi trong việc chăm sóc, bón phân,thu hoạch và tổng thu nhập kinh tế cao.

+ Nhược điểm: Bộ rễ có khuynh hướng ăn sâu trong thời gian không tưới nước, cây mau già cổi.

– Phân bón: Khi cây cam quýt còn tơ (năm I,II ) có thể dùng Urê pha nước để tưới ( 40g Urê/8 lít nước) gốc và cây phát triển mạnh, khoảng 3 tháng tưới một lần.

Bảng khuyến cáo bón phân cho cam quýt

Năm tuổi Ure (g/cay/năm) Super lân (g/cay/năm) KCl (g/cây/năm)
3 200 500 50
5 450 1.000 170
Trên 5 năm 900 1.500 250
– Ở thời kỳ kinh doanh ( cây trên 5 năm tuổi ) phân bón cho quýt tiều trên những vườn thâm canh cao: từ 400-900g N,200-460 g P2O5 ,100-200g K2O/cây/năm theo tỷ lệ N : P2O5 : K2O = 3 : 1 : 0,2.

Ở thời kỳ kinh doanh (cây trên 5 năm tuổi) phân bón cho cam sành trên những vườn thâm canh cao: 380-680 gam N+150-400 gam P2O5 + 100-150 gam K2O /cây/năm.

Dạng phân sử dụng: N nên sử dụng ở dạng phân Urê, phân Super lân nên bón sau thu hoạch, các dạng phân có chứa lân khác (DAP, NPK) nên bón vào giai đoạn nuôi quả.

– Phân chuồng: 5-20 kg/gốc/năm.

Đối với cây trưởng thành, ở giai đoạn kinh doanh cần chú ý bón phân vào các thời kỳ sau:

+ Sau thu hoạch ( bón phục hồi ) 1/5 N + 2/5P + hữu cơ

+ Sau khi xiết nước ( tưới trở lại)1/5 N + 1/5 P + 1/5 K

+ Sau khi quả đậu 1/5 N + 1/5 P + 1/5 K

+ Giai đoạn phát triển nhanh (*) 2/5 N + 1/5 P

+ Một tháng trước thu hoạch 3/5 K.

(*) Giai đoạn nuôi quả, ngoài1/4 lượng đạm còn lại, thì lượng phân nên cung cấp tùy theo mức độ đậu quả và sự phát triển của quả, và chia làm nhiều lần bón, kết hợp với phân bón lá, chú ý phòng ngừa sâu bệnh gây hại trái ở giai đoạn này.

Tóm lại: Liều lượng phân bón tùy theo loại đất, giống, giai đoạn sinh trưởng mà lượng phân cung cấp cho cây thích hợp.

Cách bón: Dựa theo chiều cao của tán cây mà cuốc rảnh xung quanh gốc sâu 10-20cm, rộng 20-30cm, cho phân vào, lấp đất lại và tưới nước.

Khi cây giao tán nên dùng cuốc xúp nhẹ lớp đât xung quanh cây theo hình chiếu của tán, và phải cách gốc 50 cm. Hoặc có thể rải phân thẵng lên mặt liếp, tốt nhất là tưới đẩm liếp trước, sau đó mới bón phân.

Có thể dùng phân tôm, phân cá, phân dơi để tưới hoặc bón cho cây cam quýt, hoặc dùng một số loại phân bón lá phun 4-5 lần/vụ quả ở giai đoạn bắt đầu phát triển nhanh, mỗi lần phun cách nhau 15 ngày.

Xử lý phòng ngừa sâu bệnh:

– Hàng năm nên quét vôi, xử lý thuốc trừ nấm bệnh cho gốc quýt tiều.

– Tránh tưới nước, bón phân hoặc vét sình thẳng vào gốc.

– Cần phun thuốc phòng ngừa sâu bệnh các đợt đọt non và giai đoạn mang trái.

– Để hạn chế mầm bệnh trong đất gây hại bộ rễ cam quýt (nhất là trong mùa mưa có độ cao) nên dùng Zineb rải gốc, trung bình 40 kg/ha và chia làm 2 lần vào tháng 5 ÂL và tháng 9 ÂL.

– Phát hiện sớm những cây có triệu chứng bệnh greening để kịp thời loại bỏ

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh.
  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh
Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả.

Quy Trình Quản Lý Cây Trồng Tổng Hợp Trên Cây Bưởi Diễn

Vùng trồng bưởi thích hợp cần tránh những vùng có độ dốc lớn, đất nhiễm phèn, mặn, những vùng có sương muối, gió bão gây hại.

1. Giới thiệu chung
Giống có nguồn gốc từ bưởi Đoan Hùng, được đưa về trồng đầu tiên tại xã Phú Diễn – huyện Từ Liêm – TP Hà Nội. Giống có quả tròn, vỏ quả nhẵn, khi chín màu vàng cam; khối lượng trung bình từ 0,8 – 1kg; tỷ lệ phần ăn được từ 55 – 60%; số hạt trung bình khoảng 50 – 70 hạt; múi và vách múi dễ tách rời nhau. Thịt quả màu vàng xanh, ăn giòn, ngọt, độ brix 12 -14 %. Với vườn cây từ 7 tuổi trở nên, năng suất đạt từ 25 – 28 tấn/ha trong điều kiện chăm sóc trung bình. Thời gian thu hoạch muộn hơn bưởi Đoan Hùng, thường trước tết nguyên đán khoảng 15 – 20 ngày. Hiện tại, cây bưởi Diễn được trồng ở khá nhiều vùng sinh thái khác nhau như: Hà Tây, Hưng Yên, Bắc Giang và ngày càng khẳng định tính ưu việt của giống so với các giống bản địa.

2. Một số yêu cầu ngoại cảnh

* Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ bình quân năm thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây bưởi là 12 – 39oC. Nhiệt độ thấp nhất gây chết là – 8 đến – 11oC, bưởi có thể chống chịu được khi nhiệt độ lên đến 48oC. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng của bưởi là 23 – 29oC. Những vùng có nhiệt độ bình quân năm trên 20oC và tổng tích ôn từ 2.500 – 3.500oC đều có thể trồng được bưởi.
Với yêu cầu như trên, điều kiện nhiệt độ tại Vân Đồn nằm trong ngưỡng thích hợp cho phát triển bưởi.
* Yêu cầu về nước và chế độ ẩm
Lượng mưa trung bình năm thích hợp cho trồng bưởi là 1.250 – 1.850 mm. Bưởi yêu cầu lượng mưa phân bố đều trong năm hơn lượng mưa lớn nhưng tập trung vào một số ít tháng. Bưởi cần nhiều nước ở thời kỳ bật mầm, phân hoá mầm hoa, ra hoa và  quả phát triển.  Bưởi không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp là 70 – 80%.
* Yêu cầu về đất đai
Vùng trồng bưởi phải đất phải có tầng canh tác dày ít nhất 0,6 – 1m; thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, đất tơi xốp, thông thoáng và thoát nước tốt. Đất phải giầu mùn, hàm lượng các chất dinh dưỡng phải đạt mức trung bình trở lên (hàm lượng mùn từ 2 – 3%; N tổng số: 0,1 – 0,15%; P2O5 dễ tiêu từ 5 – 7mg/100g; K2O dễ tiêu từ 7 – 10mg/100g; Ca, Mg: 3 – 4mg/100g).
pH KCl đất thích hợp nhất cho cây trồng bưởi là từ  5,5 – 6,0 song cũng có thể trồng được bưởi khi pH KCl từ 4,0 – 8,5 nhưng phải có biện pháp cải tạo đất.
* Yêu cầu về ánh sáng
Cường độ ánh sáng thích hợp cho trồng bưởi là 10.000 – 15.000 Lux (tương ứng với ánh sáng lúc 8 giờ sáng và 16 giờ chiều). Cần bố trí mật độ trồng dày hợp lý có được ánh sáng tán xạ, tránh được giám quả.
* Yêu cầu về các yếu tố khác
Vùng trồng bưởi thích hợp cần tránh những vùng có độ dốc lớn (trên 15o), đất nhiễm phèn, mặn, những vùng có sương muối, gió bão… gây hại.

3. Kỹ thuật trồng

a) Tiêu chuẩn giống trồng
Cây giống phải được nhân từ cây mẹ đầu dòng tuyển chọn và phải đạt tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể: cây giống sản xuất bằng phương pháp ghép phải được tạo hình cơ bản trong vườn ươm, có ít nhất 2 cành cấp 1 và không nhiều quá 3 cành. Đường kính cành ghép cách điểm ghép đạt từ 0,5 – 0,7 cm; dài từ 50 cm trở lên; có bộ lá xanh tốt, không sâu, bệnh.
b) Chọn đất trồng và chuẩn bị đất trồng
* Chọn đất: có tầng dầy từ 1 m trở lên, kết cấu xốp để giữ mầu, và thoát nước tốt, giàu mùn. Độ dốc của đất từ 3 – 200 (tốt nhất là 3 – 80 ).  
* Chuẩn bị đất trồng
Bao gồm: phát quang, san mặt bằng; thiết kế vườn trồng; đào hố; bón phân lót và lấp hố; các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới tiêu nước,…
– Phát quang và san ủi mặt bằng
Đối với những đồi rừng chuyển sang trồng cây ăn quả nói chung và trồng bưởi Diễn đều phải phát quang, thậm chí phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho việc thiết kế vườn được dễ dàng. Trừ những nơi đất quá dốc ( từ khoảng 100 trở lên ) sẽ áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dùng cày máy hoặc cày trâu cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tơi xốp ngăn được sự bốc hơi nước của vườn sau khi bị phát quang.
Đối với các loại đất chuyển đổi khác sang trồng bưởi Diễn cũng cần phải dọn sạch  và tạo lại mặt bằng trước khi thiết kế.
– Thiết kế vườn trồng
+ Tuỳ theo quy mô diện tích và địa hình đất mà có thiết kế vườn trồng một cách phù hợp. Đối với đất bằng hoặc có độ dốc từ 3 – 50 nên bố trí cây theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tam giác (kiểu nanh sấu). Đất có độ dốc từ 5 – 100 phải trồng cây theo đường đồng mức, khoảng cách của hàng cây là khoảng cách của đường đồng mức. Ở độ dốc 8 – 100  nên thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang đơn giản, dưới 80 có thể áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, trên 100 phải thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang kiên cố.
+ Đối với vườn diện tích nhỏ dưới 1ha không cần phải thiết kế đường giao thông, song với diện tích lớn hơn thậm chí tới 5 – 10 ha cần phải phân thành từng lô nhỏ có diện tích từ 0,5 đến 1ha/lô và có đường giao thông rộng để có thể vận chuyển vật tư phân bón và sản phẩm thu hoạch bằng xe cơ giới, đặc biệt đối với đất dốc cần phải bố trí đường lên, xuống và đường liên đồi. Độ dốc của đường lên đồi không quá 100.
+ Bố trí mật độ, khoảng cách
Mật độ trồng phụ thuộc vào và khả năng đầu tư thâm canh. Thông thường đối với bưởi Diễn trồng với khoảng cách 5m x 4m (tương ứng với 500 cây/ ha).  Đối với những vùng đất tốt hoặc có điều kiện đầu tư thâm canh và áp dụng các biện pháp đốn tỉa hàng năm có thể bố trí mật độ dày hơn (600 cây/ha).
Ở những vùng đất dốc, hàng cây được bố trí theo đường đồng mức và khoảng cách giữa 2 đường đồng mức là khoảng cách giữa 2 hình chiếu của cây. Khoảng cách cây được xác định như nhau trên cùng một đường đồng mức, đường đồng mức dài hơn thì có số cây nhiều hơn.
– Đào hố trồng và bón lót
+ Kích thước hố rộng  0,8 – 1 m sâu 0,8 – 1 m. Đất xấu cần đào rộng hơn.
+ Bón phân lót cho 1 hố: 
Bót lót cho mỗi hố 30 – 50 kg phân chuồng hoai (hoặc 5 – 7 kg phân vi sinh) + 1 kg supelân + bón vôi đủ điều chỉnh pH đất về ngưỡng thích hợp (từ 6 – 6,5). Toàn bộ lượng phân lót trên được trộn đều với tầng đất mặt và lấp hố. Lượng đất lấp hố cao hơn bề mặt hố từ 7 – 10 cm, dùng cọc thiết kế vườn đánh dấu tâm hố. Hố cần phải chuẩn bị trước khi trồng ít nhất 1 tháng.
c) Trồng cây
* Thời vụ trồng và cách trồng
– Trong điều kiện sinh thái huyện Vân Đồn thời vụ trồng tốt nhất vào tháng 2, 3 (có thể trồng vào tháng 8,9).
– Cách trồng: Đào 1 hố nhỏ chính giữa hố trồng, đặt cây vào hố lấp đất vừa bằng cổ rễ hoặc cao hơn 2- 3 cm. Không được lấp quá sâu, trồng xong phải tưới ngay và dùng cỏ mục ủ gốc (lưu ý phải cách gốc từ 10- 15 cm để tránh sâu bệnh xâm nhập).
* Chăm sóc sau khi trồng 
– Tưới nước
Thường xuyên giữ ẩm trong vòng 20 ngày đến 1 tháng để cây hoàn toàn bén rễ và phục hồi. Sau đó tuỳ thời tiết nắng mưa để chống hạn hoặc chống úng cho cây. Trước khi thu hoạch 1 tháng ngừng tưới nước.
Về lượng nước tưới và số lần tưới phải dựa vào khả năng giữ nước của đất, lượng bốc hơi và lượng mưa để quyết định, phương pháp tưới có thể là tưới bề mặt hoặc tưới nhỏ giọt,… mỗi lần bón phân cần phải tưới nước để phân có thể hoà tan tạo điều kiện cho cây hấp thụ tốt hơn.
– Cắt tỉa tạo hình
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ chưa mang quả: Việc cắt tỉa được tiến hành ngay từ khi trồng. Để có được dạng hình hợp lý (hình bán cầu), cần thực hiện theo các bước sau:
Tạo cành cấp 1: Khi cây con đạt chiều cao 45 – 50 cm, cần bấm ngọn để tạo cành cấp 1. Chỉ để lại 3 – 4 cành cấp 1 phân bố tương đối đều về các hướng. Các cành cấp 1 này thường chọn  cành khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 – 10 cm trên thân chính và tạo với thân chính một góc xấp xỉ 450 – 600 để khung tán đều và thoáng.
Tạo cành cấp 2: Khi cành cấp 1 dài 25 – 30 cm, ta bấm ngọn để tạo cành cấp 2. Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 3 cành cấp 2 phân bố hợp lý về góc độ và hướng.
Tạo cành cấp 3: Cành cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm sau. Các cành này phải khống chế để chúng không giao nhau và sắp xếp theo các hướng khác nhau giúp cây quang hợp được tốt.
+  Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ mang quả
Cắt tỉa sau thu hoạch: Được tiến hành sau khi thu hoạch quả. Cắt tỉa tất cả các cành sâu bệnh, cành chết, cành vượt, những cành quá dày, cắt tỉa bớt cành cấp 1(nếu số cành cấp 1/cây quá dày) sao cho cây có bộ khung tán cân đối. Đối với cành thu, cắt bỏ những cành yếu, mọc quá dày.
Cắt tỉa vụ xuân: Được tiến hành vào giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 hàng năm: Cắt bỏ những cành xuân chất lượng kém, cành sâu bệnh, cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, dầy, dị hình.
Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành từ tháng 4 đến hết tháng 6: Cắt bỏ những cành hè mọc quá dày hoặc yếu, cành sâu bệnh, tỉa bỏ những quả nhỏ, dị hình.
– Bón phân
Bón phân cho bưởi Diễn tuỳ thuộc vào tuổi cây và sản lượng hàng năm, nền đất cụ thể. Cây từ 1- 3 năm sau khi trồng (cây chưa có quả – giai đoạn kiến thiết cơ bản). Mỗi năm bón 4 lần vào tháng 2, tháng 5 tháng 8 và tháng 11. Lượng phân bón ở mỗi lần như sau:
+ Đợt bón tháng 2: Bón 100% phân hữu cơ + 40% đạm + 40% kali
+ Đợt bón tháng 5: 30% đạm + 30% kali
+ Đợt bón tháng 8: 30% đạm + 30% kali
+ Đợt bón tháng 11: 100% lân + 100% vôi
Lượng bón mỗi cây:
Năm trồng Phân hữu cơ (kg) Đạm urê (gam/cây) Lân supe (gam) Kaliclo rua (gam) Vôi bột (kg)
Năm thứ 1 30 300 500 110 1
Năm thứ 2 30 500 800 330 1
Năm thứ 3 50 860 1.200 460 1
Trong thời kỳ cho quả, lượng phân bón được thiết lập dựa trên năng suất của vụ trước. Có thể tham khảo bảng hướng dẫn sau:
Năng suất thu hoạch vụ trước Lượng bón
Phân hữu cơ (kg/cây) Đạm Urê (g/cây) Lân Supe (g/cây) Kaliclorua (g/cây)
20 kg/năm 30 650 830 410
40 kg/năm 1.100 1.400 680
60 kg/năm 50 1.300 1.700 820
100 kg/năm 1.750 2.250 1.090
120 kg/năm 70 2.200 2.800 1.360
 
Thời vụ bón: Toàn bộ lượng phân được chia làm 3 lần bón trong năm.
Lần 1: Bón  thúc hoa: (tháng 2): 40% đạm urê + 30%  kaliclorua
Lần 2: Bón thúc quả: (tháng 4 – 5): 20%  đạm urê + 30% kaliclorua
Lần 3: Bón sau thu hoạch: (tháng 11 – 12): 100% phân hữu cơ  + 100% phân lân + 40%  đạm urê, 40%  kaliclorua.
Cách bón:
Bón phân hữu cơ: đào rãnh xung quanh cây theo hình chiếu của tán với bề mặt rãnh rộng  30 – 40 cm, sâu 20 – 25 cm, rải phân, lấp đất và tưới nước giữ ẩm. Hoặc có thể đào 3 rãnh  theo hình vành khăn xung quanh tán để bón, năm sau bón tiếp phần còn lại.
Bón phân vô cơ: khi đất ẩm chỉ cần rải phân lên mặt đất theo hình chiếu của tán cách xa gốc 20 – 30 cm, sau đó tưới nước để hoà tan phân. Khi trời khô hạn cần hoà tan phân trong nước để tưới hoặc rải phân theo hình chiếu của tán, xới nhẹ đất và tưới nước.

4. Một số biện pháp chăm sóc khác

* Biện pháp kích thích ra hoa
Khoanh vỏ: vào cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi lá đã thành thục, chọn những cây sinh trưởng khoẻ, lá xanh đen tiến hành khoanh vỏ. Khoanh toàn bộ số cành cấp 1. Phương pháp là dùng dao sắc khoanh bỏ hết lớp vỏ đến phần gỗ với chiều rộng vết khoanh 0,2 – 0,3 cm theo hình xoắn ốc 1,5 – 2 vòng, tuyệt đối không dùng liềm, cưa. Xử lý thuốc trừ nấm bệnh cho vết khoanh.
* Biện pháp tăng khả năng đậu quả
+ Trước khi nở hoa: dùng các loại phân bón lá: Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông (theo chỉ dẫn trên bao bì) phun 2 lần, lần 1 khi mới xuất hiện nụ, lần 2 cách lần 1 là 15 ngày.
+ Sau khi đậu quả: khi quả non có đường kính 1 – 2 cm, phun Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông 2 – 3 lần với nồng  chỉ dẫn, các lần phun cách nhau 10 – 15 ngày.

5. Một số loại sâu bệnh hại chính 

Trong điều kiện cụ thể tại Đầm Hà, cần lưu ý phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại sau:
* Sâu hại Bưởi
• Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella):
– Đặc điểm gây hại: 
Phá hoại ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3 – 4 năm đầu mới trồng. Trên cây tập trung phá hoại thời kỳ lộc non, nhất là lộc xuân. Trưởng thành đẻ trứng vào búp lá non, sâu non nở ra ăn lớp biều bì lá, tạo thành  đường ngoằn ngèo, có phủ sáp trắng, lá xoăn lại, cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất từ tháng 2 đến tháng 10).
– Phòng trừ: Phun thuốc diệt sâu 1 – 2 lần cho mỗi đợt lộc non bằng: Decis 2,5EC 0,1 – 0,15%; Trebon 0,1 – 0,15%; Polytrin 50EC 0,1 – 0,2%.
• Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori):
– Đặc điểm gây hại:
Con trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.
– Phòng trừ:
+ Bắt diệt trưởng thành (Xén tóc)
+ Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non
+ Sau thu hoạch (tháng 11 – 12)  quét vôi vào gốc cây để diệt trứng
+ Phun các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu.
• Nhện hại:
– Đặc điểm gây hại:
+ Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vùng tròn  lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
+ Nhện trắng (Polyphagotarsonemus latus): Phát sinh chủ yếu ở trong những thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.
– Phòng trừ: Để chống nhện (nhện đỏ và nhện trắng) dùng thuốc Comite, Ortus 50EC, Pegasus 250 pha nồng độ 0,1 – 0,2% phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun kép 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày bằng những  thuốc trên hoặc phố trộn 2 loại với nhau hoặc với dầu khoáng trừ sâu.
• Rệp hại: Chủ yếu hại trên các lá non, cành non, lá bị xoắn rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.
– Đặc điểm gây hại: 
+ Rệp cam: Chủ yếu gây hại trên các cành non, lá non. Lá bị xoăn, rộp lên. Rệp tiết ra chất nhờn (gọi là sương mật) hấp dẫn kiến và nấm muội đen.
+ Rệp sáp (Planococcus citri): Trên mình phủ 1 lớp  bông hoặc sáp màu trắng, hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Những  vườn cam hoặc cây cam ở gần ruộng mía thường hay bị từ mía lan sang.
– Phòng trừ: Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon pha với nồng độ 0,1 – 0,2%  phun 1 – 2 lần ở thời kì lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
* Bệnh hại bưởi
• Bệnh loét (Xanthomonas campestris)
Đặc điểm gây hại: Bệnh gây hại ở thời kì vườn ươm và cây mới trồng 1 – 3 năm, ở thời kỳ cây cho thu hoạch bệnh gây hại cả trên lá bánh tẻ, cành, quả non. Trên lá thấy xuất hiện các vết bệnh không định hình, mới mầu xanh vàng, sau chuyển thành màu nâu xung quanh có quầng vàng. Gặp điều kiện ẩm ướt gây thối rụng lá, gặp điều kiện khô gây khô giòn vết bệnh làm giảm quang hợp. Gây hại nặng trong điều kiện nóng, ẩm (vụ xuân hè).
• Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk)
Triệu chứng gây hại: Vết bệnh thường có mầu nâu nhạt nhô lên khỏi bề mặt lá. Có thể lốm đốm hoặc dày đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi, gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ lở, màu vàng hoặc nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết. Bệnh đặc biệt gây hại nặng trong điều kiện nống và ẩm ( vụ xuân hè).
– Phòng trừ:
+ Cắt bỏ lá bệnh, thu gom đem tiêu huỷ
+ Phun thuốc: Boocđo 1 – 2% hoặc thuốc Kasuran 0,2%.
– Cách pha thuốc boocđô (pha cho 1bình 10 lít):
+ Dùng 0,1 kg Sunfat đồng + 0,2 kg vôi đã tôi (nồng độ 1/100), nếu nồng độ 2% thì lượng sunfat đồng và vôi tăng gấp đôi.
+ Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat, 3 lít còn lại pha với vôi, lọc bỏ cặn bã, sau đó lấy dung dịch đồng loãng đổ vào nước vôi đặc vừa đổ vừa quấy cho tan đều sẽ được dung dịch boocđô.
• Bệnh chảy gôm (Phytophthora citriphora):
– Đặc điểm gây hại:
Bệnh thường phát sinh ở phần sát gốc cây cách mặt đất khoảng 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ và rễ.
Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ.
Bệnh nặng lớp vỏ bị hại thối rữa (giống như bị dội nước sôi) và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong có màu đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại, cây có thể bị chết ngay, còn bị một phần thì cây bị vàng úa, sinh trưởng kém, bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rẽ cũng bị thối.
– Phòng trừ:
Đẽo sạch lớp vỏ và phần gỗ bị bệnh, dùng Boocđô 2% phun trên cây và quét trực tiếp vào chỗ bị hại, nếu bệnh đã lan xuống rễ phải đào chặt bỏ những rễ bị bệnh rồi xử lý bằng boocđô.
Có thể dùng các loại thuốc khác như Aliette 80NP, Benlat C nồng độ 0,2 – 0,3% để phun và xử lý vết bệnh.
• Bệnh Greening:
– Đặc điểm gây hại: Cây có múi nói chung và bưởi nói riêng có thể nhiễm bệnh Greening vào bất kỳ giai đoạn nào từ  thời kỳ vườn ươm tới khi cây 10 năm tuổi. Tuy nhiên, bưởi ít nhiễm bệnh Greening hơn các giống cam quýt khác. Triệu chứng cho thấy: trước khi những lá non trở thành mầu xanh thì trở nên vàng, cứng lại và mất mầu. Mô giữa các gân lá chuyển xanh vàng hoặc hơi vàng và có đường vân. Đầu tiên các đọt và lá non bị bệnh sâu đó có thể biểu hiện trên cả tán. Cùng thời gian đó  lá xanh và lá già chuyển xang mầu vàng từ sống lá và gân lá. Các lá bị nhiễm bệnh có thể  bị rụng sớm, trong một vài tháng hoặc và năm tất cả các cành cây bị khô đi và tàn lụi.
– Phòng trừ:
+ Sử dụng cây giống sạch bệnh
+ Trồng sen ổi để xua đuổi rày chổng cánh.
+ Phun thuốc phòng trừ môi giới truyền bệnh (Rầy chổng cánh)
+ Cắt bỏ tất cả các cành bị bệnh đem đốt
+ Bón phân cân đối tăng sức đề kháng và chống chịu của cây
• Các bệnh do virus và viroid: Trên bưởi còn 2 loại bệnh khá nguy hiểm gây hại: bệnh vàng lá (do virus Tristeza gây hạ) và bệnh Exocortis (do viroids gây hại). Các bệnh này không chữa trị được bằng các loại thuốc hoá học như trên mà phải phòng trị bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, bắt đầu từ khâu nhân giống sạch bệnh tới các kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ môi giới truyền bệnh vv…

6. Thu hoạch và bảo quản

– Thời điểm thu hoạch: Thu hoạch khi vỏ quả chuyển từ màu xanh chuyển xang mầu vàng;
– Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh khi thu hái: Thu hoạch quả vào những ngày trời tạnh ráo, thu hoạch vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát, tránh thu hoạch vào giữa trưa hoặc trời quá nóng.
– Kỹ thuật thu hái: Cần phải có thang chuyên sử dụng cho thu hoạch quả và sử dụng kéo để cắt chùm quả sau đó lau sạch, phân loại, cho vào thùng hoặc sọt tre có lót giấy hoặc xốp, để nơi thoáng mát và đem đi tiêu thụ.

Khắc Phục Tình Trạng Bưởi Diễn Không Đậu Quả

Với việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật như trên, cây bưởi sẽ khỏe mạnh, sạch bệnh, tích lũy dinh dưỡng hồi phục cho cây, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt, ra hoa, đậu quả cho vụ bưởi năm sau.

Do diễn biến thời tiết phức tạp làm xáo trộn sinh lý bình thường của cây bưởi, cho nên mặc dù bưởi ra hoa rất nhiều nhưng cơ bản là các chùm hoa tại các cành chỉ nhỏ như hoa chanh. Loại hoa này hầu như rụng hết và không thể đậu quả, dù gặp thời tiết thuận lợi. Trước thực trạng mất mùa của bưởi Diễn, căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm của các hộ trồng bưởi lâu năm, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã khuyến cáo tới các hộ trồng bưởi Diễn trong vùng tiếp tục chăm sóc cho cây bưởi để phục vụ cho mùa bưởi năm sau.

Cắt tỉa cành, tạo tán

Một trong những yếu điểm của các nhà vườn trồng bưởi Diễn trong nhiều năm qua là mật độ trồng quá dày; cây năm thứ 5, thứ 6 đã chạm tán; năm thứ 8, thứ 9 đã đan cành vào nhau, tạo nên sự cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng quyết liệt, ảnh hưởng đến năng suất. Hầu hết các cây này có nhiều cành tăm, cành vượt, cành vô hiệu không thể có quả. Các nhà vườn nên có kế hoạch cắt tỉa các cành này, tạo thông thoáng cho cây. Nếu vườn dày quá có thể nhân cơ hội này loại bỏ những cây không đạt tiêu chuẩn về chất lượng, các cây còi cọc, mắc bệnh, tạo thông thoáng cho vườn, giảm sâu bệnh. Đây là biện pháp hết sức quan trọng để tạo cho cây bưởi khỏe, có môi trường tốt để sinh trưởng phát triển, tích lũy dinh dưỡng cho kỳ ra hoa đậu quả sang năm.

Phòng trừ sâu bệnh

Cây bưởi Diễn là cây dễ nhiễm các loại sâu bệnh như sâu vẽ bùa, nhện đỏ, xì mủ chảy gôm, loét… Nếu không có biện pháp phòng trừ tích cực, nhất là chán nản do không có thu hoạch thì cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây bưởi trong năm tới. Tích cực áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) cho cây bưởi, hạn chế dùng thuốc bảo vệ thực vật, khi dùng phải đảm bảo 4 đúng (đúng thuốc, đúng cách, đúng thời điểm và đúng liều lượng) để vừa đạt hiệu quả cao trong phòng trừ và chi phí đầu tư.

Chăm bón hợp lý

Do cây bưởi năm nay không mang quả nên việc chăm bón cho cây cũng nên chú ý, nên bón phân vừa phải, cân đối, chú ý tăng lượng kali, lân, không để cây quá tốt, thừa đạm, vừa tốn kém, vừa ộp quả, quả quá to cho vụ tới.

Thử nghiệm phương thức ghép quả

Bà con nông dân có thể thử nghiệm phương pháp ghép quả. Năm 2008 đã xuất hiện kỹ thuật ghép quả bưởi tại vườn bưởi anh Hải ở Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Cách làm như sau: Lấy quả bưởi ở những cây bưởi sai quả, to bằng quả ổi hoặc nắm tay với phương pháp ghép đoạn, ghép vào cây bưởi không có quả. Phương pháp này thường áp dụng ghép cho cây bưởi Diễn cảnh trồng trong chậu để bán Tết.

Với việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật như trên, cây bưởi sẽ khỏe mạnh, sạch bệnh, tích lũy dinh dưỡng hồi phục cho cây, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt, ra hoa, đậu quả cho vụ bưởi năm sau.

Hướng Dẫn Cách Trồng Cây Dừa Xiêm Dứa

Cây trồng sau 3 năm cho trái. Bình quân cho 15 buồng, tương đương 220 trái/năm. Năng suất cao và ổn định ở cây từ 6 đến 25 năm tuổi.

Dừa được trồng ở nhiều địa phương, từ các tỉnh miền Trung đến Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng ven biển đặc biệt thích hợp với dừa dứa. Loại cây này ưa đất tơi xốp, hàm lượng dinh dưỡng các chất dễ tiêu cao và đất không quá phèn hay quá mặn, độ pH từ 5 trở lên có thể trồng tốt. Trên vùng đất bạc màu cần cung cấp nhiều phân hữu cơ. Dừa dứa thuộc nhóm dừa lùn, giống đồng hợp tử (homozygous). Nếu trồng chuyên canh dừa dứa cách ly với các vườn dừa khác giống thì không có khả năng lai tạp. Dạng cây, trái giống dừa xiêm xanh, chỉ khác là nước và cơm dừa có mùi thơm của dứa, mùa nắng hạn mùi thơm càng đậm. Bộ rễ và lá cũng có mùi thơm.

1.Cách chọn giống

Dừa dứa có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài trên 20 năm. Nó có vị thế quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế nông thôn, du lịch sinh thái… Vì thế, việc chọn giống để trồng là rất quan trọng vì nếu lầm lẫn trong khâu chọn giống thì năng suất thấp, chất lượng kém.

Vườn cây đầu dòng phải được trồng thuần dừa dứa và hoàn toàn cách ly với các vườn dừa khác giống. Cây giống được nuôi trong túi nhựa kích thước trung bình 20x 28cm, chiều cao cây từ 50cm trở lên, có 4 – 5 tàu lá, không bị sâu bệnh, bộ rễ phát triển.

2. Hướng dẫn cách trồng

2.1 Chuẩn bị đất:

Khai hoang theo rãnh để tránh gây biến đổi sinh thái môi trường và gây bất lợi cho sự phát triển cây trồng.

2.2. Mô liếp trồng:

Vùng đất cao ráo hay đất cát không cần lên liếp mà chỉ cần cày sâu 20- 30cm và dọn sạch cỏ, rễ cây. Đất phù sa thấp cần lên liếp để chống ngập úng. Tùy độ sâu của tầng phèn mà thiết lập mương liếp cho phù hợp. Liếp đơn bề rộng khoảng 4-5m. Liếp đôi bề rộng khoảng 9-10m. Chiều sâu mương không được vượt quá tầng sinh phèn. Nếu đất thấp cần lên mô cao 0,3- 0,7m, sau đó bồi đất hàng năm.

2.3. Mô hay hốc trồng:

Bón 1kg vôi bột, sau 1 tuần bón 0,5 – 1kg lân, 5-10kg phân hữu cơ hoai mục.

2.4.  Khoảng cách trồng:
Trung bình cây cách cây 5,5m-6m, hàng cách hàng 6m. Mỗi hecta trồng 280-300 cây.

2.5. Cách trồng:

Đặt cây con ở vị trí giữa mô hay hốc trồng; không lấp đất cao hơn cổ thân cây con; cố định cây để phòng chống đổ ngã và che gốc giữ ẩm.

3. Chăm sóc

3.1. Tưới nước:

Những ngày đầu sau khi trồng cần tưới cho cây, 1-2 ngày/lần. Cây bén rễ, mùa khô cần tưới 3 – 4 lần/tháng. Theo dõi độ ẩm của đất để điều chỉnh lượng nước tưới.

3.2. Làm cỏ:

Chỉ làm cỏ xung quanh gốc khoảng 1 – 2m. Không nên làm sạch cỏ để tạo vùng tiểu khí hậu ổn định và giúp thiên địch có chỗ khu trú.

3.3. Trồng xen:

Là biện pháp kỹ thuật có ảnh hưởng tốt cho cây sinh trưởng. Trong những năm đầu có thể trồng các loại cây họ Đậu và xen các loại cây cam, quýt, ổi…

3.4. Bón phân:

– Phân hữu cơ: Khoảng 20 – 30kg/cây/năm, bón đều khắp tán cây và cuốc xới chôn vùi phân xuống sâu 1 – 3 tấc. Đào 3 – 6 hốc xung quanh tán cây có kích thước 0,4 x 0,4 x 0,4m, bón phân và lấp đất lại. Cần lưu ý độ ẩm của đất, tránh quá ẩm hay khô hạn kéo dài.

– Phân hóa học:

+ Cây 1 – 2 năm tuổi: Bón cách gốc 15 – 50cm. Liều lượng: 200g urê, 300g lân, 150- 300g kali, chia ra 4 lần/năm.

+ Cây 3 năm tuổi trở lên: Bón đều cả tán cây. Liều lượng: 1kg urê, 1 – 2kg lân, 1,5 – 2kg kali. Chia ra 2 – 3 lần/năm. Bón 1 – 2kg vôi đầu mùa mưa.

4. Phòng trừ sâu – bệnh gây hại:

– Dùng Supracide, Bassan diệt rầy..; Basudin 50Ec, Fenbis… diệt sâu ăn lá.

– Dùng chế phẩm Mat Metarhizium anisopliae, liều 50g, pha 1 lít nước + 20ml dầu dừa hay dầu ăn, lắc đều, đổ vào nõn dừa có bọ gây hại (xử lý vào mùa mưa đạt hiệu quả cao hơn). Dùng 1g Actara 25WG pha 5 ml nước bơm vào thân cây. Hay dùng Diaphos 10H, Vicarp 95 BHN đặt vào đọt non cây dừa

Nuôi Ong Ký Sinh Phòng Trừ Bọ Cánh Cứng Hại Dừa

Nuôi ong ký sinh, phóng thích ra ngoài tự nhiên là biện pháp dễ làm, ai cũng có thể thực hiện được.

Dừa là một trong các cây lấy dầu quan trọng nhất thế giới. Ngoài giá trị về kinh tế vì tính đa dụng, rất nhiều sản phẩm có giá trị được tạo ra từ vỏ dừa, gáo dừa, cơm dừa, thậm chí từ lá dừa, thân dừa,…đặc biệt cây dừa còn có giá trị truyền thống đối với vùng đất Bến Tre. Ngày nay, giá dừa đang lên cao càng kích thích nông dân mở rộng diện tích trồng dừa mới. Tuy nhiên, bọ cánh cứng hại dừa ( bọ dừa ) phát triển và gây hại là một thách thức lớn đối với nông dân trồng dừa. Trong vài năm gần đây, tỉnh Bến Tre ứng dụng biện pháp sinh học, nuôi ong ký sinh Asecodes hispinarum để phòng trừ bọ cánh cứng hại dừa đã mang lại hiệu quả cao, khống chế được sự phát triển của loài dịch hại này, đồng thời không gây ô nhiễm môi trường. Song để biện pháp này phát huy hiệu quả cao cần sự “chung tay, góp sức” của cả cộng đồng. Nuôi ong ký sinh, phóng thích ra ngoài tự nhiên là biện pháp dễ làm, ai cũng có thể thực hiện được.

Cách nhân nuôi như sau:

Đầu tiên chọn ấu trùng tuổi 4 để cho ký sinh. Ong Asecodes hispinarum có thể ký sinh trên ấu trùng bọ dừa tuổi 2,3 và 4 nhưng chỉ nên chọn những ấu trùng tuổi 4 cho ký sinh là tốt nhất, khả năng vủ hóa ra ong trưởng thành cao. Sau đó cho khoảng 100 ấu trùng bọ dừa đã chọn vào trong hộp nhựa ( kích thước khoảng 15cm x 20cm) và một ít lá dừa non. Tiếp theo là giai đoạn cho ký sinh, đây là giai đoạn quan trọng nhất. Cho ống nghiệm đựng 10 mummy (ấu trùng bọ dừa đã bị ký sinh ) sắp vũ hóa vào trong hộp chứa ấu trùng đã chọn. Khi cho ong vào hộp để ký sinh, dùng một miếng giấy thấm nhỏ tẩm dung dịch mật ong pha loãng rồi dán vào thành hộp để ong có thể hút mật trong thời gian ở trong hộp. Cuối cùng, dùng tấm vải mỏng phủ lên miệng hộp trước khi đậy nắp lại. Sau khi cho ký sinh vẫn phải tiếp tục thay lá dừa ( thức ăn) vì bọ dừa trong giai đoạn này mặc dù bị ký sinh nhưng vẫn còn sống và ăn để nuôi ong non trong cơ thể chúng, đến khi ấu trùng bọ dừa chuyển màu đen thì không cần thay thức ăn nữa.

Trong điều kiện nuôi cho ký sinh trong hộp nhựa, khả năng ký sinh khoảng 50-60%. Quan sát sau khi ký sinh 4-5 ngày, những bọ dừa bị ký sinh sẽ có màu nâu hồng, sau đó khoảng 7 ngày chúng chuyển màu đen ( gọi là mummy). Trong thời gian này, nếu mổ bên trong cơ thể bọ dừa sẽ thấy những con ong non màu trắng trong ( giống như dòi), kích thước khoảng 0.7 – 0.8mm. Đây là giai đoạn ong bắt đầu tiêu thụ thức ăn trong cơ thể bọ dừa. Nhiệt độ cũng là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến sự vũ hóa của ong. Nhiệt độ trong phòng nuôi thích hợp vào khoảng 28-29oC. Trong trường hợp thời tiết quá nóng bức, cho dù tỷ lệ ký sinh cao nhưng ong không vũ hóa ra ngoài được và tự chết trong cơ thể bọ dừa (có thể ngoài thiên nhiên những ấu trùng bọ dừa tự điều tiết để thích nghi). Nếu điều kiện thích hợp, tỷ lệ ong trưởng thành thoát ra khỏi xác bọ dừa 90- 100%. Thực tế cho thấy, từ một cơ thể ấu trùng bọ dừa có thể chứa 60-65 con ong. Khi thoát ra, ong sẽ tạo những lổ nhỏ bằng đầu kim ở mặt dưới bụng bọ dừa. Thời gian từ khi ký sinh đến khi vũ hóa thành ong trưởng thành trung bình 16-17 ngày. Nếu quá thời gian mà ong không thoát ra được là chúng đã bị chết trong cơ thể bọ dừa.
Hộp ấu trùng bọ dừa đã ký sinh.

Khoảng 16-17 ngày sau khi ký sinh thì phóng thích ong ra ngoài thiên nhiên. Có thể thả ong khi chúng thoát ra khỏi xác bọ dừa hoặc thả lúc ong còn nằm bên trong. Tuy nhiên, nên thả lúc ong còn nằm trong xác bọ dừa vì giai đoạn này dễ mang đi xa. Cho xác bọ dừa ( sắp vũ hóa ) vào trong hộp nhỏ có nắp đậy không cho nước vào. Đục 4-5 lổ nhỏ ( khoảng 1cm ) xung quanh hộp để ong bay ra ngoài. Đặt hộp ở nơi thoáng mát gần vườn dừa, ong sẽ tự động bay ra ngoài tìm ký chủ để ký sinh.

Qui trình nuôi ong Asecodes hispinarum không khó, bất cứ ai cũng có thể nuôi được. Trong thời gian qua, Chi cục Bảo vệ thực vật Bến Tre đã chuyển giao nhiều lớp tập huấn qui trình nuôi ong ký sinh đến từng hộ nông dân và đạt kết quả tốt. Không giống như biện pháp hóa học, hiệu quả từ biện pháp sinh học đòi hỏi sự lâu dài, bền bỉ và cần tính cộng đồng cao. Vì thế, mọi nông dân đều phải có ý thức tự nhân nuôi và cùng nhau bảo vệ loài thiên địch này, giúp chúng phát triển mạnh, tạo được sự cân bằng sinh thái ngoài thiên nhiên.

Kỹ Thuật Nuôi Ong Ký Sinh Diệt Bọ Dừa

Qui trình nuôi ong ký sinh Asecodes hispinarum đòi hỏi một số kỹ thuật khá cao mới bảo đảm sự thành công.

Dừa là một trong các cây lấy dầu quan trọng trên thế giới, có rất nhiều sản phẩm có giá trị được tạo ra từ thân dừa, vỏ dừa, gáo dừa, cơm dừa, lá dừa,… Bọ cánh cứng (bọ dừa) là một thách thức lớn đối với nông dân trồng dừa. Năm 2009, bọ dừa cánh cứng phá hại rất nghiêm trọng, làm giảm năng suất dừa của tỉnh Bến Tre và cả nước. Trong thời điểm này, nông dân diệt bọ dừa bằng thuốc hóa học nhưng không hiệu quả mà còn dẫn đến ô nhiễm môi trường, hại sức khỏe cho người nên nông dân trồng dừa hết sức lo lắng.

Trong vài năm gần đây, tỉnh Bến Tre ứng dụng biện pháp sinh học nuôi ong ký sinh Asecodes hispinarum để phòng trừ bọ cánh cứng hại dừa đã mang lại hiệu quả cao, khống chế được sự phát triển của loài dịch hại này, đồng thời không gây ô nhiễm môi trường. Qui trình nuôi ong ký sinh Asecodes hispinarum đòi hỏi một số kỹ thuật khá cao mới bảo đảm sự thành công.

Chuẩn bị dụng cụ:

– Một cái hộp nhựa có nắp, vải mỏng đậy miệng hộp
– Hai lá dừa non, 1 ống nghiệm đựng xác mummy (ấu trùng bọ dừa đã bị ký sinh)
– Một chậu đựng nước sạch

Thực hiện:

– Quan sát trong ống nghiệm, khi thấy ong ký sinh đã nở chui ra từ xác mummy, thì chuẩn bị hộp chứa ấu trùng. Hộp nhựa được vệ sinh sạch sẽ, lá dừa non cắt đoạn ngắn vừa với đáy hộp rồi cho vào hộp.
– Lấy 100 – 150 ấu trùng bọ dừa 3 – 4 ngày tuổi cho vào 1 hộp nhựa .
– Lấy ống nghiệm chứa ong ký sinh đã nở đặt nhẹ vào hộp, mở miệng ống nghiệm, nhanh tay đặt miếng vải đậy hộp nhựa lại thật kín. Lúc này ong bò ra tìm ấu trùng bọ dừa để ký sinh. Đem hộp nhựa đặt vào trong chậu có chứa ít nước, dưới hộp nhựa có giá đỡ, đặt thau vào nơi thoáng mát.
– Lập sổ nhật ký ghi chép, theo dõi quá trình ong ký sinh trên ấu trùng bọ dừa đến khi nở.
+ Đến ngày thứ 3 tính từ ngày ong ký sinh tiếp xúc với ấu trùng bọ dừa, cần thay lá dừa non. Lấy hộp nhựa mới đã được vệ sinh sạch sẽ, cắt lá dừa non vừa đáy hộp, chuyển ấu trùng cùng với ong ký sinh từ hộp cũ sang hộp mới. Lúc này, hộp được đậy bằng nắp, không đậy bằng vải như lần đầu, Cứ 3 ngày thay lá dừa (thức ăn) mới 1 lần.
+ Từ ngày đầu tiên tiếp xúc đến ngày thứ 12, tiến hành thu xác mummy (những ấu trùng bọ dừa bị ký sinh sẽ có màu nâu hồng, sau đó khoảng 7 ngày chúng chuyển màu đen, gọi là mummy). Cho xác mummy vào ống nghiệm, 10 xác/1 ống, dùng bông gòn đậy lại, xếp vào hộp nhựa để lại chỗ cũ. Bốn ngày sau ong sẽ nở, lúc này là đúng độ phóng thích ra vườn dừa có bọ dừa phá hại.
– Thời điểm tốt nhất để phóng thích ong ký sinh là lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Tìm những cây có bọ dừa phá hại, đặt ống nghiệm vào kẽ bẹ dừa gần ngọn, rút bông gòn ra khỏi ống nghiệm, ong sẽ tự do bò ra ngoài tìm ấu trùng bọ dừa để ký sinh và tiếp tục nhân đàn trong thiên nhiên. Có thể thả ong khi chúng thoát ra khỏi xác mummy hoặc thả lúc ong còn nằm bên trong. Tuy nhiên, nên thả lúc ong còn nằm trong xác mummy vì giai đoạn này dễ mang đi xa.

Ong ký sinh diệt bọ dừaOng đẻ trứng ký sinh trên sâu non của bọ dừa
Bọ dừa bị ký sinh
 
Bọ cánh cứng hại dừa khá mẫn cảm với các loại hóa chất cũng như các chế phẩm sinh học hiện có. Tuy nhiên, việc diệt trừ loài này rất khó vì chúng chỉ cư trú và gây hại các lá ở đọt chưa bung và cây dừa có thân cao; dừa lại được trồng rải rác trong thôn xóm, nhà dân; dưới tán dừa thường là ao nuôi tôm, cá nên khó có thể phun các loại hóa chất. Kể từ khi thả ong ký sinh ra ngoài đồng cho đến nay, diện tích dừa được phục hồi tăng lên rõ rệt. Không chỉ riêng ở Bến Tre, mà hầu hết các địa phương có phóng thích ong ký sinh đều thu được kết quả khả quan, nơi thấp nhất có 30% sâu non bị ong ký sinh, nơi nhiều có tới 80% ong ký sinh. Tầm hoạt động của loài ong này rất rộng không chỉ quanh quẩn nơi thả mà còn phát tán mạnh với bán kính 3-4 km, thậm chí có điểm xa tới 8 km.

TS. Trần Tấn Việt, Phó Trưởng khoa Nông học – Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM, cho biết: “Ong ký sinh có màu đen, kích thước nhỏ, khó nhìn thấy bằng mắt thường, chúng dễ chết nếu nông dân sử dụng thuốc hóa học. Chúng không có khả năng gây hại cho các loại cây trồng và sinh vật khác ngoài bọ cánh cứng. Việc dùng ong ký sinh diệt bọ cánh cứng hại dừa là biện pháp ổn định, bền vững, an toàn, chi phí thấp vì hiện nay nguồn ong ký sinh được cung cấp miễn phí, bất cứ ai cũng có thể nuôi được; trong khi đó muốn dùng hóa chất phải bỏ tiền ra mua. Hiệu quả từ biện pháp sinh học đòi hỏi sự lâu dài, bền bỉ và cần tính cộng đồng cao. Vì thế, mọi nông dân đều phải có ý thức tự nhân nuôi và cùng nhau bảo vệ loài thiên địch này, giúp chúng phát triển mạnh, tạo được sự cân bằng sinh thái ngoài thiên nhiên”.

Bệnh Thối Đọt Dừa

Triệu chứng đầu tiên là những lá non ở đọt và những lá kế bị vàng từ ngoài chót sau đó lan dần vào bên trong, trong khi các lá phía dưới vẫn xanh

Bệnh thối đọt dừaDừa là loại cây dễ trồng, ít đầu tư phân, thuốc như các loại cây trồng khác, ít chịu ảnh hưởng của biến đổi khi hậu và đặc biệt là thích hợp với vùng đất Bến Tre. Trong thời gian gần đây, diện tích trồng dừa ngày càng mở rộng do giá dừa đang ổn định ở mức cao. Mặc dù, là loại cây “dễ tính” nhưng để đạt năng suất cao thì đòi hỏi nông dân cũng phải quan tâm chăm sóc nhất là việc phòng trừ các đối tượng dịch hại để bảo vệ vườn dừa. Hiện nay, bệnh thối đọt dừa đã có xuất hiện trên một số vườn, đây là bệnh khá nguy hiểm vì nếu không phòng trị kịp thời sẽ làm chết cây.

Triệu chứng đầu tiên là những lá non ở đọt và những lá kế bị vàng từ ngoài chót sau đó lan dần vào bên trong, trong khi các lá phía dưới vẫn xanh. Những lá vàng rất dễ bị gãy bẹ, kéo nhẹ cũng rời khỏi thân. Sau đó, cả củ hủ (đọt dừa và các lá chưa mở) cũng sẽ khô thối và có mùi hôi rất khó chịu (cần phân biệt với triệu chứng bị đuông dừa: chỉ lá ngọn héo vàng và đổ ngã xuống, có nhiều lổ đục của kiến vương; áp sát tai vào thân nghe được tiếng đuông ăn “rào rào” như tiếng máy chà lúa). Giai đoạn này cây không lớn nữa, các tàu lá già ra trước vẫn xanh và các buồng trái ở lá này vẫn có thể chín được, nhưng các buồng trái non ở trên sẽ rụng trầm trọng.

Nếu nấm không xâm nhập đến củ hủ thì cây có thể phục hồi sau đó, nhưng trên ngọn các tàu lá sẽ méo mó và những lá chét chồng chất lên nhau, nhỏ hẵn đi. Vì thế, nông dân cần nhận biết triệu chứng ngay giai đoạn đầu để phòng trừ kịp thời mới cứu được cây dừa.

Bệnh do nấm Phytophthora palmivora gây ra. Nấm gây bệnh trên nhiều loại cây trồng. Trên thế giới nơi nào trồng dừa đều có nhiễm bệnh này. Tuy nhiên, nhiều cây thối ngọn do bị sét đánh, nấm sau đó mới xâm nhiễm vào thì có thể là nấm Phytophthora palmivora hoặc có thể là một loại nấm khác. Nấm thường gây bệnh vào đầu mùa mưa, ẩm độ cao. Từ khi nấm bệnh xâm nhiễm vào đến khi dừa chết khoảng 3-5 tháng.

* Biện pháp phòng trừ:

– Tránh trồng nơi ẩm thấp, vườn trồng dừa phải cao ráo, thoát nước tốt. Không trồng quá dày, thiếu ánh sáng.

– Thường xuyên vệ sinh vườn dừa, phá hết lùm bụi, làm cỏ để tạo thông thoáng vườn dừa.

– Tránh gây vết thương nhất là những lá non, tích cực tiêu diệt các tác nhân gây vết thương như kiến vương, chuột,… để hạn chế con đường xâm nhập của bào tử nấm vào cây.

– Phát hiện trong vườn dừa có cây bệnh nặng (không thể cứu được) thì nên đốn bỏ ngay và tiêu hủy để mầm bệnh không phát tán sang những cây khác.

– Tăng cường bón phân hữu cơ cho dừa.

– Thăm vườn thường xuyên, phát hiện sớm khi cây vừa chớm bệnh (những lá trên hơi vàng trong khi những lá dưới vẫn xanh) dùng  thuốc hóa học phun kỹ ở giữa đọt lá và nách lá. Sử dụng một trong những loại thuốc sau: Aliette 80WP, Ridomil-MZ 72 WP, Mataxyl 500WP,… phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 7-10 ngày.

Hiện Tượng Dừa Mủ

Bọ xít này tấn công trên tất cả các giống dừa. Thường những vườn dừa trồng xen ít bị bọ xít gây hại hơn những vườn dừa trồng chuyên. Những vườn trồng dày, ít chăm sóc bị hại nhiều hơn.

Bo xít pseudotheraptus wayi hại dừaDừa là một trong những cây lấy dầu quan trọng nhất thế giới. Riêng đối với tỉnh Bến Tre, dừa còn là cây trồng truyền thống gắn liền với đất và người nơi đây. Thực tế, chưa có loại cây trồng nào đa dụng như cây dừa. Cũng giống như những loại cây trồng khác, dừa thường bị nhiều loại dịch hại tấn công, ngoài bọ cánh cứng hại dừa là phổ biến, hiện nay mối quan tâm của người trồng dừa là thường xuất hiện triệu chứng “dừa mủ”, nguyên nhân là do một loài bọ xít chích hút.

Loài bọ xít gây hại dừa có tên khoa học là pseudotheraptus wayi, thuộc họ coreidae, bộ hemiptera (cánh nửa cứng), ký chủ chính của loài bọ xít này là cây dừa. Trưởng thành bọ xít có màu ánh đỏ ở phần lưng, bụng màu xanh lục, dài khoảng 12-14mm. Chúng đẻ trứng rải rác trên những hoa dừa hoặc trái dừa non. Mỗi con cái có thể đẻ trung bình 70 trứng. Giai đoạn từ trứng đến khi nở 8-9 ngày. Ấu trùng có màu đỏ nâu đến màu xanh lá cây, râu dài.

Bọ xít thường ẩn trú ở các nách của bẹ dừa. Cả thành trùng và ấu trùng chích hút hoa và trái non, làm hoa bị hư và trái non rụng sớm. Ấu trùng mới nở thường bu quanh những hoa đực để ăn phấn hoa, ấu trùng tuổi lớn và trưởng thành chích hút mạnh và có xu hướng phá hại nhiều trên hoa cái và trái non. Chính nước bọt độc hại của bọ xít tiết ra gây hoại tử ngay vết chích, tạo thành những sẹo và vết nứt. Từ những vết nứt có chất mủ dẽo màu nâu đỏ chảy ra (nông dân còn gọi là dừa mủ). Nếu bọ xít tấn công lúc trái còn nhỏ sẽ làm trái rụng sớm, nếu chích hút trái khoảng 3 tháng tuổi trở lên thì trái không rụng nhưng trái bị méo mó, kém phát triển, có những vết sẹo và vết nứt chảy mủ, làm giảm năng suất và giá trị thương phẩm của trái dừa. Vỏ trái dừa bị bọ xít gây hại trở nên cứng và khó lột. Chỉ cần có 2 con bọ xít trên một buồng dừa có thể gây thiệt hại đáng kể.

Kiến vàng là thiên địch quan trọng của bọ xít dừa. Những vườn dừa có nhiều kiến vàng thường ít bị bọ xít gây hại.

Biện pháp quản lý:

Đối với loài bọ xít này, một số nước trồng dừa, chủ yếu là áp dụng biện pháp sinh học.

– Trồng mật độ vừa phải, không trồng quá dày. Nếu là vườn trồng xen, nên xen ở khoảng cách hợp lý.

– Thường xuyên vệ sinh vườn dừa cho thông thoáng cũng hạn chế được bọ xít.

– Nuôi kiến vàng trong vườn dừa bằng cách trồng xen trong vườn một số cây mà kiến vàng thích cư trú như mận, ổi, mãng cầu xiêm,… và giăng dây tạo điều kiện cho kiến vàng đi lại giữa các cây tìm kiếm thức ăn và thiết lập tổ mới để phát triển đàn.

Dừa mủ - dừa chảy mủ do bọ xít pseudotheraptus wayi gây hại

Kỹ Thuật Trồng Dừa Xiêm Xanh

Cây phải được trồng trong quần thể dừa xiêm xanh, không trồng chung với các giống dừa khác, như vậy sẽ bảo đảm được chất lượng của trái ở đời sau

I- Kỹ thuật chọn giống: 

Dừa xiêm xanh là loại dừa dùng để uống nước, nó là cây đặc sản của xứ dừa Bến Tre; thời gian từ khi trồng đến khi cây cho trái “chiến” từ 2,5 đến 3 năm (tùy vào điều kiện chăm sóc), thu nhập bình quân cho 01 ha dừa khi cây cho trái ổn định (06 năm tuổi trở lên) khoảng 130 triệu đồng/ha (giá bán 2.500đ/trái). Tuy nhiên, để có được vườn dừa xiêm đạt yêu cầu về chất lượng, đáp ứng được cho thị trường hiện nay, khi quyết định trồng dừa người nông dân cần phải chọn giống thật chính xác (đúng giống, cây có gen di truyền tốt, không sâu bệnh nguy hiểm, không có mùa treo kéo dài, kích cỡ trái phải đáp ứng được nhu cầu thị trường…).

* Chọn cây mẹ:

– Cây phải được trồng trong quần thể dừa xiêm xanh, không trồng chung với các giống dừa khác, như vậy sẽ bảo đảm được chất lượng của trái ở đời sau.

– Cây mọc thẳng, sẹo lá dày, gốc không phình to, không có đoạn khuyết hoặc vết tích sâu hại trên thân.

– Số trái trên quày từ 10 trái trở lên, không có trái điếc, đít trái nhọn hoặc bầu tùy giống (nhọn có núm nông dân gọi là dừa xiêm núm, bầu gọi là dừa xiêm bầu), đây là hai giống dừa được thị trường chấp nhận cao nhất hiện nay.

* Chọn trái:

– Trái được thu hoạch để làm giống ít nhất phải được 11 tháng tuổi trở lên, khi thu hoạch không để trái rớt trực tiếp xuống đất vì dễ làm ảnh hưởng đến tỷ lệ nẩy mầm.

– Chọn các trái nặng (khi bỏ xuống nước nổi lên 1/3 trái là được), loại bỏ những trái nhỏ, trái nổi 2/3, trái có sẹo sâu, chuột, bọt xít…

– Sau khi ươm, chọn những trái nảy mầm sớm, không cong queo, khi tách lá có hình dạng giống như đuôi cá, màu xanh đậm, không sâu bệnh nhất là bệnh do nấm (thối đọt); loại bỏ những cây lá có màu lá không đúng giống (đỏ, vàng), khi tách lá có dạng thẳng đứng, mầm mọc cong queo, có hiện tượng sâu bệnh, nhất là bệnh do nấm và trái nảy mầm quá muộn (03 tháng trở lên). Khi cây cao khoảng từ 0,4 đến 0,6 d mét thì xuất vườn.

II- Kỹ thuật trồng và chăm sóc:

A- Kỹ thuật trồng:

1- Chọn đất:

Dừa là cây rất dễ trồng, không kén đất, cây có thể sống và cho năng suất tốt trên đất có độ cao cách mặt biển dưới 600 mét; nhưng thích hợp nhất là trên đất phù sa, đất cát pha, đất có hiều hữu cơ và đặc biết đất có hàm lượng kali dồi dào, tầng canh tác dày ít nhất là 0,5 mét.

2- Chuẩn bị đất trồng:

Trồng dừa xen lúa* Đối với đất ruộng: Trước khi lên liếp trồng dừa, nên gom lớp đất mặt ruộng dùng để đấp mô trồng với kích thước mô: chiều rộng có đường kính nhỏ nhất 1 mét, chiều cao tùy vào địa hình của đỉnh triều cường hàng năm nhưng sao cho đỉnh mô cách đỉnh triều cường ít nhất 0,5 mét. Sau đó tiến hành lên liếp hoặc để trồng dừa xen lúa khoảng 2 năm sau lên liếp cũng tốt, mục đích là lấy ngắn nuôi dài.

* Đối với đất vườn cũ:

Trước khi trồng nên gom lớp đất mặt để vun mô nếu đất thấp thì ta vun cao như đất ruộng, nếu liếp cao thì không cần vun cao mà làm sao cho không bị úng trong mùa mưa là đạt, riêng kích cỡ mô nên giống như đất ruộng.

* Đối với đất miền Đông Nam bộ:

Trước khi trồng cần phải đào hố với kích thước 0,6 m x 0,6 m x 0,4 m mục đích là tiết kiệm nước cho cây hấp thu.

3- Khoảng cách trồng:

Theo kinh nghiệm thực tế của nông dân trồng dừa ở Bến Tre, đối với dừa xiêm trồng 5m x 5m và trồng theo kiểu nanh sấu hoặc hình vuông. Nhưng theo các nhà chuyên môn, để trồng dừa xiêm cho năng suất cao nên trồng với khoảng cách 5m x 6m và trồng theo kiểu hình nanh sấu, trồng theo kiểu này thì tạo điều kiện tốt cho cây hấp thu đầy đủ ánh sáng mặt trời để quang hợp tạo ra hàm lượng chất hữu cơ.

4- Bón lót:

Sau khi đã chuẩn bị mô và hố trồng xong, trước khi xuống giống khoảng 15-20 ngày tiến hành bón lót mỗi mô: phân hữu cơ khoảng 20-30 kg+100g super lân+200gram kali, trộn đều và lấp kín lại bằng mặt mô.

5- Đặt cây con:

Sau khi đã chuẩn bị xong cây giống và đất trồng, tiến hành đặt cây con, trên mô hoặc hố trồng; đầu tiên đào một hố tương đương với kích cỡ của trái dừa giống; cây giống nếu ươm trong bầu nylon thì dùng dao bén cắt đáy bầu, sau đó đặt bầu vào hố đã đào, kéo túi bầu lên khỏi thân cây, cuối cùng lấp đất lại cho bít trái là đạt, nếu cây giống cao quá 0.8 mét thì ta nên cắm cây cột giữ chặt tránh gió làm lung lay gốc ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Chú ý không nên đặt trái quá sâu vì như thế cây sẽ chậm phát triển, cũng không nên đặt trái quá cạn, tức là lấp đất không bít trái thì sau này gốc cây sẽ phình to. Đối với giống ươm ngoài đất, khi bứng cây lên nên xử lý trái trước khi trồng bằng cách là cắt tất cả rễ cho sát trái, mục đích là kích thích cho cây phát triển bộ rễ mới nhanh hơn, nếu để nguyên không cắt rễ thì phải chờ thời gian cho bộ rễ cũ thối đi, cây mới phát triển bộ rễ mới; thời gian này kéo dài ít nhất 20-30 ngày và nguy hiểm hơn nữa đây là môi trường thuận lợi cho các loại nấm bệnh tấn công rễ non vừa phát triển. Các phần còn lại thì thao tác giống như dừa ươm trong bầu.

B- Kỹ thuật chăm sóc:

1- Thời kỳ kiến thiết cơ bản: (cây từ 1-3 năm tuổi).

Cây con sau khi trồng rất cần nước, nếu giai đoạn này thiếu nước cây sẽ chết. Vì vậy, để giữ đủ ẩm cho cây ta nên dùng rơm, rạ, cỏ khô tủ gốc cây trong mùa nắng; khoảng 2-3 ngày tưới cây 1 lần tùy vào ẩm độ ở gốc. Năm đầu tiên nên bón cho cây mỗi gốc 0.5kg phân NPK: 15-15-15 và chia làm 02 lần bón vào đầu và cuối mùa mưa. Cách bón là xới nhẹ quanh gốc và bón rải đều sau đó cào đất lấp phân lại và tưới nước cho tan phân để cây dễ hấp thu. Giai đoạn này cần quan tâm đến bọ cánh cứng (bọ dừa) tấn công đọt non làm cây chậm phát triển, nếu nặng có thể chết cây.

Bắt đầu từ năm thứ 2, hằng năm nên đắp thêm đất thêm vào mô để tạo điều kiện cho rễ phát triển (trên đất ruộng), hoặc bồi bùn mỗi năm 1 lần vào đầu mùa nắng (đất liếp vườn cũ). Phân bón cũng có thể sử dụng NPK: 15-15-15 nhưng liều lượng mỗi gốc 0,75kg và chia làm 2 lần bón vào đầu và cuối mùa mưa. Năm thứ ba cũng chăm sóc như năm thứ hai nhưng lượng phân bón tăng lên 1kg/gốc. Giai đoạn này nếu cây dừa được chăm sóc tốt, đúng quy trình kỹ thuật thì sau 26-28 tháng cây sẽ cho hoa đầu tiên.

Chú ý: ở giai đoạn này cần lưu ý kiến vương thường hay tấn công cây làm cho đọt non bị cong queo, nếu chúng tấn công trúng đỉnh sinh trưởng thì cây sẽ chết, những vết đục của kiến vương là nơi tốt nhất để đuông dừa tấn công. Vì vậy, ở giai đoạn này nên chọn những cây ngắn ngày như dưa leo, cà chua, đậu búng, so đũa… trồng xen vào vườn dừa để lấy ngắn nuôi dài và đặc biệt các cây trồng xen này sẽ là môi trường ngăn chặn sự tấn công của kiến vương và đuông dừa.

2- Thời kỳ kinh doanh:

Giai đoạn này cây đã cho trái ổn định và bắt đầu đi vào thời kỳ kinh doanh vì thế quá trình chăm sóc cây cần phải tuân thủ đúng quy trình hướng dẫn để cây cho năng suất cao và ổn định.

* Chăm sóc: hàng năm nên bồi bùn cho cây 1 lần vào đầu mùa nắng, hoặc nếu có điều kiện nên bón cho cây từ 30-50 kg phân hữu cơ hoai mục/gốc, tỉa dần cây trồng xen và giữ cỏ dại hợp lý sao cho cây có đầy đủ ánh sáng để quang hợp, tránh việc để cỏ dại cạnh tranh dinh dưỡng với dừa hay dây leo chằng chịt trên cây làm cây giảm quang hợp.

* Bón phân: theo các tài liệu nghiên cứu của Viện dầu Thực vật Việt Nam và Tung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư tỉnh Bến Tre thì đối với cây dừa vào thời kỳ kinh doanh cần bón phân với công thức theo tỷ lệ urê-Super lân-Cloruakali: 0,8kg-1.5kg-1,5kg/cây/năm và được chia làm 2 lần bón trong năm, đầu và cuối mùa mưa.

Cách bón: mỗi lần bón đào rảnh 1/2 vòng tròn gốc và cách gốc 1,5-2 mét, sâu 0,15-0,2, rộng 0,2 mét sau đó bón phân vào rảnh đã đào rồi lấp đất lại, cuối cùng tưới nước cho phân tan.

Theo kinh nghiệm của tôi thì đối với cây dừa cũng sử dụng công thức phân trên để bón cho, nhưng số lần bón khác hơn phương pháp trên là không phải chia ra 2 lần bón trong năm mà nên chia ra làm 6 lần bón trong năm và bón rải đều xung quanh gốc, nhưng trước khi bón nên dùng cào sắt xới nhẹ quanh gốc, cách gốc khoảng 1,5-2 mét, sau đó bón phân lên và tưới nước. Nếu làm được như thế thì việc tăng công lao động trên một đơn vị diện tích là điều tất nhiên, nhưng ta có thể tiết kiệm được phân bón bị mất đi do trực di, bốc hơi, rửa trôi trong thời gian phân phải nằm chờ rễ hấp thu; đặc biệt hơn nữa, việc chia làm nhiều lần bón như trên sẽ làm cho cây không bị thiếu hụt dinh dưỡng, như vậy cây sẽ sinh trưởng, phát triển và có khả năng cho năng suất quanh năm, có thể hạn chế phần nào dừa treo do thiếu dinh dưỡng. (chú ý trong mùa nắng nên tưới nước đầy đủ cho cây, khoảng 2-3 ngày tưới một lần là tốt nhất và liều lượng phân bón có thể tăng, giảm tùy theo năng suất của cây hàng năm).

Trong giai đoạn cây dừa khoảng 4-6 tuổi, hàng năm nên tổng vệ sinh cây từ 1-2 lần như: dọn dẹp tất cả các nhen, bông mo khô, tàu dừa khô dính lù xù trên cây, rọc các nhen còn dính quá chặt trên đọt để giúp lá bung nhanh, cây phát triển tốt hơn; ngoài ra, dọn dẹp sạch nhen, bông mo, tàu dừa khô cũng là một phương pháp phòng ngừa kiến vương tấn công dừa rất hiệu quả, song song đó ngừa luôn cả đuông dừa.

III- Phòng trừ sâu bệnh:

1- Bọ dừa:

* Gây hại:

– Thành trùng và ấu trùng đều gây hại trên lá dừa non chưa bung ra bằng cách cạp biểu bì trên mặt lá theo từng hàng song song với gân chính, những vết cắn phá thường hẹp có màu nâu, sau đó khô, héo, cong queo, giảm khả năng quang hợp. Nếu trên cây có từ 8 lá trở lên bị hại thì sẽ làm giảm năng suất, nặng hơn có thể làm cây chết.

– Phòng trị:

+ Cắt và đốt bỏ các đọt non bị hại nặng để tránh lây lan cây khác.

+ Sử dụng ong ký sinh Tetretichus Brontispae, nấm ký sinh Metrhizium anisopliae.

+ Sử dụng thuốc hóa học như: Fastac, Sumicidine, Actara, … liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì, phun đều lên bó đọt non của cây. Tuy nhiên, hiện nay ở Bến Tre sử dụng phương pháp sinh học là hiệu quả và kinh tế nhất (thả ong ký sinh).

Ong mắt đỏ đẻ trứng trên ấu trùng bọ cánh cứng
Ong mắt đỏ đang đẻ trứng trên ấu trùng bọ cánh cứng.
2- Kiến vương:

+ Gây hại:

Chỉ có thành trùng phá hại dừa, chúng đục phá phần mô mềm ở cuối bẹ lá, cắn phá đọt non, hoa dừa lúc chưa trổ làm cho lá bị rách, hoa bị hư, đỉnh sinh trưởng phát triển cong queo, nếu chúng ăn hết đỉnh sinh trưởng cây sẽ chết. Các vết đục của kiến vương là cửa ngõ cho các loại sâu bệnh khác tấn công như bệnh thối đọt dừa hay để đuông dừa đẻ trúng  gây hại. Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm Thực nghiệm dừa Đồng Gò, trong tháng thời điểm gây hại nặng nhất của kiến vương là vào những đêm trăng sáng và trên những vườn dừa không có trồng xen.

+ Phòng trị:

– Khi cây dừa khoảng 2 năm tuổi trở lên là thời điểm thích hợp nhất cho kiến vương tấn công. Như vậy, vào giai đoạn này cần phải thăm vườn thường xuyên để phát hiện vết đục của kiến vương, sau đó dùng móc sắt bắt, cuối cùng dùng đất sét trám bít lổ đục để phòng ngừa các loại khác như nấm bệnh hay đuông xâm nhập.

Ấu trùng kiến vương và kiến vương trường thành
Thành trùng và ấu trùng của kiến vương.
– Không để rơm, rạ mục xung quanh vườn vì đây là môi trường tốt để kiến vương đẻ trứng và phát triển.

– Theo khuyến cáo của các nhà khoa học, để hạn chế việc gây hại của kiến vương ở các vườn dừa trẻ nên trồng xen các cây ngắn ngày, cây họ đậu, cây ca cao, …nhằm hạn chế tầm bay của kiếng vương, giảm khả năng gây hại của chúng rất lớn.

– Sử dụng phương pháp hóa học để phòng trị kiến vương tỏ ra hiệu quả không cao vì đây là loài côn trùng có thể di chuyển rất xa nên rải thuốc không hiệu quả; vì vậy nên áp dụng kỹ thuật canh tác là hiệu quả nhất.

3- Đuông dừa:

+ Gây hại: Ngược với kiến vương, đuông dừa chỉ gây hại ở giai đoạn ấu trùng. Thành trùng đẻ trứng vào các lổ đục của kiến vương, các vết thương trên cây và đặc biệt hiện nay chúng còn đẻ trứng dưới gốc dừa tấn công phần gốc. Quá trình gây hại của đuông dừa rất nguy hiểm vì rất khó phát hiện, khi phát hiện được thì khó có khả năng để cứu cây khỏi khỏi chết.

Đuông dừa và ấu trùng đuông dừa
Thành trùng và ấu trùng của đuông dừa.
+ Phòng trị: đối với đuông, phòng trị cũng như kiến vương là phải thăm vườn thường xuyên để phát hiện sớm khi ấu trung còn ở tuổi 1, tuổi 2 dùng dao hoạc đục sắt khoét lổ đục để bắt ấu trùng, sau đó dùng thuốc hạt như Basudin 3G + nước vôi tươi lên lổ đã khoét nhằm phòng ngừa các loại nấm bệnh, côn trùng khác tấn công. Sử dụng biện pháp hóa học hiệu quả không cao, chỉ nên áp dụng kỹ thuất canh tác để phòng là hiệu quả nhất như: hạn chế tối đa việc gây vết thương trên thân dừa hoặc sự gây hại của kiến vương, tăng cường xen canh hợp lý cũng là điều kiện tốt để làm giảm khả năng gây hại của đuông.

4- Bọ xít trái Amblypelta sp:

+ Gây hại: đây là đối gây ra hiện tương rụng trái non và dừa mủ, cả thành trùng và ấu trung đều chích hút ở nụ hoa, trái non và tiết ra độc tố vào vết chích, nếu chích vào giai đoạn trái vừa thụ phấn (còn nhỏ) sẽ làm cho trái non rụng đi, nếu chích vào giai đoạn trái lớn hơn (khoảng 1 tháng tuổi trở lên) thì trái có khả năng không rụng mà vùng mô xung quanh vết chích sẽ bị hoại thư sau này thành trái dừa bị sẹo nhăn nheo hay chảy mủ ra ngoài mà nông dân gọi là dừa mủ.

Dừa mủ, dừa rụng trái do bọ xít Amblypelta sp
Dừa mủ do bọ xít gây hại.
+ Phòng trị: vệ sinh vườn cho thông thoáng, trồng đúng khoảng cách, không trồng quá dày hiệu quả cao nhất là nên nuôi kiến vàng trong vườn dừa vì đây là thiên địch có thể tấn công bọ xít.

5- Chuột dừa:

+ Gây hại: chuột là loài gặm nhắm có đặc tính rất đặc biệt hơn các loài động vật khác, răng cửa của chúng cứ phát triển dài mãi mãi mà không bao giờ dùng lại, vì thế chúng cắn phá dừa nhằm mục đích để răng mòn không mọc ra dài được, thứ hai là để ăn cơm dừa và uống nước. Trái dừa bị chuột khoét sẽ rụng đi khi đã bị chúng cắn thủng gáo, ở Đồng bằng sông Cửu long, vào thời điểm triều cường ngoài đồng nước ngập sâu, chuột bắt đầu vào các vườn dừa cắn phá làm thiệt hại đến năng suất khá lớn.   

Chuột ăn trái dừa
Dừa bị chuột khoét.
+ Phòng trị: thông thường ở Bến tre người dân trồng dừa vào mùa nước lũ là dọn vệ sinh vườn và cây dừa, thăm vườn thường xuyên khi phát hiện trên cây có ổ chuột tiến hành săn bắt hay làm bẩy để diệt chuột nhưng cần phải thay đổi mồi thương xuyên mới có hiệu quả. Có một phương pháp rất cổ nhưng lại rất hiệu quả đối với các vườn dừa trồng đúng khoảng cách, bảo đảm cây không giao tán nhau bằng cách là bọc thiếc quanh thân cây làm cho chuột không leo lên cây được vì nơi bọc thiết quá trơn, chuột không thể bám được để leo lên. Như vậy sẽ bảo vệ được các trái dừa ở trên cây.

6- Bệnh đốm lá:

+ Triệu chứng: trên lá mầm bệnh xuất hiện từ chóp lá trở vào, đầu tiên là những đốm nhỏ màu nâu vàng hình bầu dục, sau đó đốm bệnh lớn dần có màu nâu, tâm vết bệnh màu xám tro, nhiều vết liên kết lại làm cho lá bị cháy. Bệnh thường xuất hiện nhiều ở giai đoạn vườn ươm và những vườn trồng dày.

Triệu chứng bệnh đốm lá dừa.

+ Tác nhân: do nấm Pestalozziap palmarum gây ra.

+ Phòng trị:

– Bố trí khoảng cách trồng hợp lý.
– Bón phân đầy đủ và cân đối nhất là kali.
– Nếu bệnh nặng nên phun thuốc hóa học như: Ridomyl, Novral,… liều lượng theo khuyến cáo trên bao bì.

Dừa bị bệnh đốm lá
Dừa bị bệnh đốm lá
7- Bệnh thối đọt:

+ Triệu chứng: đầu tiên các lá non trên đọt có dấu hiệu mất màu xanh bình thường, sau đó vàng, cuối cùng khô và trên đọt ta nghe có mùi hôi, thối; các lá già phía dưới cũng dần dần vàng, khô và rụng đi; cây chết.

+ Tác nhân: do nấm Phytopthora Palmivora Bult gây ra

+ Phòng trị: thăm vườn thường xuyên để sớm phát hiện cây bị nhiễm bệnh, vì từ khi nấm xâm nhập vào đọt cây đến lúc chết đọt thời gian từ 3-5 tháng. như vậy khi phát hiện cây bị nhiễm bệnh nhẹ, tiến hành phun ngay lên đọt bằng thuốc Ridomyl liều lượng khoảng 30g/bình 8 lít và phun liên tục 3 lần, mỗi lần cách nhau 3 ngày. Nếu trong vườn có cây bị bệnh chết ta nên gom tất cả các phần bệnh đem đốt sạch để tránh nấm bệnh lây qua các cây dừa khác.

Thối đọt dừa
Bệnh thối đọt dừa do nấm Phytopthora Palmivora Bult gây ra
8- Bệnh nứt rụng trái non:

+ Nguyên nhân:

– Đất bị nhiễm phèn, mặn làm hư bộ rễ của cây ảnh hưởng đến quá trình nuôi trái, như vậy trái sẽ rụng trong suốt mùa khô hay sau những cơn mưa đầu mùa.

– Trái rụng trong mùa mưa dầm và thương bị nứt trái có thể là do đặc tính di truyền của cây. Thông thường đây là những cây có trái to, vỏ mỏng, bón quá thừa đạm, thiếu kali, rễ phát triển mạnh nên cây hút nhiều nước, từ đó dễ làm cho trái bị nứt và rụng, có thể rụng cả quày hay chỉ rụng 2/3 quày còn lại 1/3 quày dính trên cây cho đến thu hoạch.

– Rụng trái do nấm: khi trái rụng ta thấy lá đài và nơi tiếp giáp giữa cuống trái với lá đài (mầu dừa) có màu nâu đen, thối mềm.

– Rụng do vi khuẩn: khi trái rụng quan sát thấy trên mầu trái dừa có mủ và có một số lá đài vẫn còn xanh.

– Rụng do di truyền: do chọn giống trên cây dừa có bệnh nứt rụng trái non để trồng.

+ Phòng trị: dừa bị nứt rụng trái non do rất nhiều nguyên nhân nên phương pháp phòng trị ta cần áp dụng biện pháp bao dây bằng cách là ở những vùng đất phèn mặn hàng năm ta nên bón cho mỗi gốc từ 3-5kg vôi bột; song song đó, ở những vùng đất thông thường khác, nếu cây bị nứt rụng trái non ta nên áp dụng biện pháp phòng trị sau: điều chỉnh lại công thức phân bón tức là giảm urê, tăng kali; vào mùa nước lũ hay mưa dầm dùng leng cắt bớt rễ cây để giảm khả năng hút nước của rễ; trên thân đục một lổ có hình tam giác đều, cạnh khoảng 10 cm, đỉnh quay ngược xuống gốc, sâu khoảng 15 cm, sau đó dùng muối ăn (NaCl) trét lên vết đục nhằm giảm lượng nước đưa lên cây và cung cấp một phần clo cho cây. Nếu phát hiện trái rụng có những vết do vi khuẩn hay nấm bệnh tấn công thì khi cây nở hoa tiến hành phun các loại thuốc trừ nấm trực tiếp lên buồng hoa lúc hoa chưa nở như: Mancozeb, Ridomyl liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì; hoặc các loại thuốc trừ vi khuẩn như: Đồng đỏ hay Starner liều lượng theo hướng dẫn trên bao bì.

Bệnh dừa nứt trái rụng trái do nấm
III- Thu hoạch:

Đối với dừa xiêm xanh dùng để uống nước thông thường nhà vườn thu hoạch trái ở quày thứ 6 (chưa được 6 tháng tuổi); tuy nhiên, để xác định được quày dừa 6 tháng tuổi ta có thể tuân thủ theo nguyên tắc như sau: khi quan sát các sẹo lá dừa ta thấy chúng phát triển theo hình xoắn, có cây xoắn theo vòng phải có cây theo vòng trái và một vòng xoắn như thế có 5 xẹo lá ta gọi cây dừa có diệp tự 2/5. Như vậy khi quan sát các quày dừa còn trên ngọn ta có thể quy định quày mới nở là quày số 0, nằm phía dưới quày số 0 là quày số 5, dưới quày số 5 là quày số 10; nếu là dừa ta, dừa dâu đó là tháng tuổi của trái vì hai giống dừa này mỗi tháng trổ một quày, nhưng đối với dừa xiêm thì khác vì nhóm dừa này hai tháng trổ được 3 quày nên quày số 5 chỉ được 4 tháng tuổi mà thôi, vì vậy để thu hoạch dừa xiêm nạo đạt tiêu chuẩn, có phẩm chất ngon ta nên thu hoạch ở quày số 8 trên cây dừa là trái có chất lượng ngon nhất.

Trong thực tế hiện nay, nhà vườn thường thu hoạch dừa xiêm xanh chưa đủ tuổi (tức là còn non nạo) nên khi tiêu thụ phải vận chuyển xa hoặc gọt vỏ chuyển bằng xe lạnh thường bị nổ trái do thay đổi nhiệt độ trong điều kiện trái còn quá non, gáo chưa được cứng, do vậy sẽ làm ảnh hưởng cả lô hàng không bán được, đặc biệt hơn nữa là sẽ làm mất đi thương hiệu dừa xiêm xanh Bến Tre nói riêng và dừa xiêm xanh Việt Nam nói chung. Như vậy, chúng tôi đề nghị nhà vườn cần nên tuân thủ đúng quy trình thu hoạch để giữ uy tính trên thị trường và tạo điều kiện cho người tiêu dùng khắp thế giới thưởng thức được hương vị của quả dừa xiêm xanh Việt Nam tuyệt vời như thế nào