Danh mục lưu trữ: Kỹ thuật trồng cây

Công Dụng Của Dây Bòng Bong

Bòng bong vị ngọt, tính lạnh. Quy vào hai kinh tiểu trường và bàng quang. Có tác dụng làm thông lâm, thanh nhiệt giải độc và lợi thấp. Chủ trị các chứng viêm thận, thủy thũng, sỏi niệu đạo, sỏi mật, mụn nhọt sang lở, vết thương do bỏng hoặc thương tích chảy máu.

Công dụng của dây bòng bongBòng bong còn gọi là thòng bong hay thạch vi dây, tên thuốc là hải kim sa, là loại dây leo thân rễ bò, luôn xanh tốt. Lá dài xẻ 2 – 3 lần lông chim, lá chét mang bào tử nang  ở mép, bào tử là những hạt phấn nhỏ màu vàng nhạt hay nâu vàng, chất nhẹ, sờ nhẵn, cảm giác mát tay, nom tựa như cát biển, có lẽ vì thế mà có tên là hải kim sa. Vị thuốc là cả dây mang lá có những bào tử đã chế biến khô.

Theo đông y, Bòng bong vị ngọt, tính lạnh. Quy vào hai kinh tiểu trường và bàng quang. Có tác dụng làm thông lâm, thanh nhiệt giải độc và lợi thấp. Chủ trị các chứng viêm thận, thủy thũng, sỏi niệu đạo, sỏi mật, mụn nhọt sang lở, vết thương do bỏng hoặc thương tích chảy máu. Liều dùng: 10 – 20g. Dưới đây là vài cách chữa bệnh của bòng bong.

Dây bòng bong– Chữa chứng tiểu tiện khó khăn, đau không chịu nổi, bụng dưới bí bách, tiểu tiện vàng, đục hoặc ra sỏi, dùng bòng bong 100g, mang tiêu 100g, hổ phách 40g, bằng sa 20g. Tán thành bột, uống ngày 5 – 8g, ngày 3 lần, uống với nước chín.

– Trường hợp nhiệt chứng, niệu đạo nóng rát, tâm phiền, lưỡi đỏ, miệng đắng, dùng bòng bong 60g, kê nội kim 12g. Đông quỳ tử 9g, sa tiền tử 15g, kim tiền thảo 60g, thạch vi 12g, tiêu thạch 15g. Sắc uống ngày một thang chia 3 lần.

– Nếu ứ trệ, bụng dưới bí bách, sỏi và nhiệt ứ câu kết với nhau, dùng bòng bong 9g, hổ phách 9g, kim tiền thảo 60g, cù mạch 15g, biển súc 15g, trư linh 15g, hoạt thạch 18g, mộc thông 15g, sa tiền 15g, phục linh 15g, trạch tả 15g, ngưu tất 10g, cam thảo 3g. Trường hợp khí hư gia hoàng kỳ 15g; huyết hư gia đương quy 12g, xuyên khung 8g, thục địa 16g, bạch thược 12g. Nếu khí trệ ứ huyết thì thêm trần bì 10g, mộc hương 8g, nga truật 12g, Sắc uống.

– Chữa sỏi niệu đạo: dùng bòng bong 30g, biển súc 15g, mã đề 30g. Sắc uống ngày một thang, uống trong 1 – 2 tuần.

– Tiểu tiện khó đau rát: dùng bòng bong 30g, hoạt thạch 30g, ngọn cành cam thảo 10g tán thành bột, mỗi lần uống 6g với nước sắc mạch môn, ngày 2 – 3 lần.

Kỹ Thuật Trồng Cây Đinh Lăng

Trong dân gian, đinh lăng thường dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẩn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy

Cây đinh lăng có tên khoa học là Polysciasfructicosa thuộc họ ngũ gia bì. Cây đinh lăng được chúng ta trồng ở chậu hoa hay trong vườn ở trước sân nhà làm cây cảnh. hoặc làm dược liệu quý. Cây đinh lăng sử dụng được toàn bộ cây từ củ, rễ, cành và lá để làm thuốc trị bệnh bồi bổ sức khỏe và làm gia vị cho các món ăn như gỏi cá, thịt chó… Hiện nay, ở một số địa phương, bà con nông dân hoặc các trang trại đã biết trồng với số lượng lớn vì hiệu quả kinh tế

Đinh lăng còn được gọi là cây gỏi cá, thuộc họ ngũ gia bì là loại cây nhỏ, cao 0,8 – 1,5m, thường được trồng làm cây cảnh trước nhà hoặc chùa, miếu. Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Quả dẹt, dài 3 – 4mm, dày khoảng 1mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi “thuốc Bắc”.

Theo Y học cổ truyền, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ.

Trong dân gian, đinh lăng thường dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẩn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy.

Kỹ thuật trồng cây Đinh lăng như sau:

1. Chọn giống

Theo dân gian, đinh lăng lẳng có hai loại chính: Đinh lăng nếp và đinh lăng tẻ.

+ Đinh lăng nếp: là loại lá nhở, xoăn, thân nhẵn, củ to, rễ nhiều và mềm, vỏ bì dày cho năng suất cao và chất lượng tốt. Nên chọn loại này để trồng khi chọn giống, chọn cành bánh tẻ hoặc phần ngọn của cây có màu nâu nhạt, chặt ra từng đoạn 25-30cm (dùng dao sắc để chặt, tránh bị dập hai đầu) không nên trồng cả cành dài vừa làng phí giống vừa khó chăm sóc

+ Đinh lăng tẻ: là loại lá to, vỏ thân xù xì, màu xanh nhạt, củ nhỏ, rễ ít và cứng, vỏ bì mỏng, năng suất thấp. Loại này không nên trồng

2. Kỹ thuật làm đất và trồng

Đinh lăng là loại cây chịu hạn, không ưa đọng nước, phát triển tốt ở vùng đất pha cát, tơi xốp, có độ ẩm trung bình.

Làm đất trồng đinh lăng: Khi trồng đại trà, diện rộng phải cầy bừa làm đất tơi. Nếu ở vùng đồi phải cuốc hốc sâu 20cm, đường kính hố 40cm. Đất làm tơi, lên luống cao 20cm, rộng 50cm. Đặt hom giống cách nhau 50cm, đặt nghiêng hom theo chiều luống, giữa các hom bón lót bằng phân chuồng 4kg/sào và 20kg phân NPK (tránh bỏ phân sát hom giống), sau đó lấp hom, để hở đầu hom trên mặt đất 5cm.

Trồng xong, phủ rơm rạ hoặc bèo tây lên mặt luống để giữ độ ẩm và tạo mùn cho đất tơi xốp. Khi trồng cong, nếu đất khô phải bơm nước ngập 2/3 luống hoặc tưới nước đảm bảo độ ẩm cho đất trong vòng 25 ngày nhưng không để ngập nước. Nếu trời mưa liên tục phải thoát nước ngay để tránh thối hom giống.

Thời vụ: Nên trồng vào mùa xuân, từ tháng 1-4. Vào mùa hè cần phải giâm hom giống 20-25 ngày cho ra rễ mới đem trồng. Giâm cành bằng cách đem hom cắm xuống đống cát để trong bóng mát.

3. Chăm sóc

Đinh lăng là cây phát triển quanh năm, chịu hạn, ít sâu bệnh. Hầu như không cần sử dụng thuốc BVTV. Từ năm thứ 2 trở đi cần tỉa bớt lá và cành, mỗi năm 2 đợt vào tháng 4 và tháng 9. Mỗi gốc chỉ để 1-2 cành to là được.

Năm đầu vào tháng 6 sau trồng, bón thúc 8kg uree/sào bằng cách rắc vào má luống rồi lấp kín. Cuối năm thứ 2 vào tháng 9 sau đợt tỉa cành, bón thêm phân chuồng 300kg/sào và 15 kg NPK+4kg kali. Trồng từ 3 năm trở lên mới thu hoạch.

4. Thu hoạch

Đinh lăng có thể thu hoạch quanh năm, song tốt nhất là vào tháng 11-12. Củ và rễ tươi đã thu hoạch cần chế biến ngay, không nên để quá 5 ngày. Có thể thái lát mỏng 0,3-0,5cm rồi rửa sạch đem phơi hoặc sấy khô. Khi bảo quản đóng bao 2 lớp: trong nilon, ngoài bao tải dứa để tránh mốc.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Tác Dụng Và Cách Trồng Dây Sương Sâm

Cây Sương Sâm cần nhiều nước nhưng không chịu úng nên những vùng đất thấp phải lên ụ hay lên liếp cao để thoát nước. nhưng để cây phát triển tốt thì chọn chân đất nhiều mùn, nhiều dinh dưỡng và có cây chà chống đỡ.

Tên khoa học: Tiliacora acuminata (Lamk.) Miers,
Thộc họ: Tiết Dê (Menispermaceae)

1. Đặc điểm hình thái và sinh thái

Sương sâm thuộc dạng dây leo, thân lâu năm to, nhánh non có lông. Lá có phiến cứng, dài 9 x 4cm, chóp nhọn hay tà, không lông, gân từ đáy. Chùm hoa tụ tán mang hoa đầu, hoa vàng, lá đài ngoài cao 2,5mm, lá đài trong to hơn, cánh hoa nhỏ, có 6 – 8 nhị, quả nhân cứng hình trái xoan, dài 10-12mm.

Cây ra hoa từ tháng 3 – 6, quả chín vào tháng 7.
Cây mọc hoang ở khắp nơi ở đồng bằng cũng như rừng núi trên khắp nước ta.
Tác dụng và cách trồng dây sương sâm

2. Tác dụng và cách trồng dây sương sâm

2.1 Tác dụng, thu hái, chế biến và thành phân dinh dưỡng của dây sương sâm

Người dân thường dùng lá tươi, thu hoạch quanh năm. Lá sau khi thu hoạch rửa sạch, sau đó cho nước vào giã nát hay vò nát lá bằng tay. Vò đến khi nào hết nhớt sau đó cho vào 1 muỗng cà phê bột Nang Mực, trộn đều, dùng khăn lược lấy nước, bỏ xác lá, vớt bọt. Để yên chừng 1 giờ, sẽ được một thau thạch sâm, màu xanh rất đẹp, mùi thơm đặc trưng. để qua đêm sẽ đong đặc lại. (nếu để ngăn lạnh trong tủ lạnh sẽ mau đặc hơn). 100gr lá cho khoảng 2000ml nước có thể nhiều hơn hay ít hơn tùy vào chất lượng của lá. Khi ăn, cho thêm đường. Thạch sâm ăn ngon, bổ, giải nhiệt, nhuận gan, không độc.

Theo các liệu cây thuốc việt nam. Rễ dây sương sâm khi thu hái về, rửa sạch, thái lát, phơi hay sấy khô.Trong rễ xương sâm có alcaloidtetrandrin,isochondrodendrin, homoaromalin, linacin, magnoflorin, protoquecitol, curin…

Công dụng: Rễ sương sâm chữa đau họng, đau lưng, đau bụng, đau dạ dày, tiêu chảy, kiết lỵ, bệnh về gan, trĩ, đau răng, tổn thương do té ngã. Liều dùng: 15g – 20g/ ngày. Dây Sương Sâm rất dễ trồng, sống lâu năm. Dùng nhiều sẽ tốt cho sức khoẻ, chữa được nhiều bệnh, nhất là những người có các bệnh về gan, dạ dày, huyết áp cao do tăng cholesterol….

2.2 Cách trồng dây sương sâm

– Giống: Từ hạt, thân mang rễ hoặc giâm cành cho ra rễ.

– Thời vụ:
 Trồng quanh năm, nhưng tốt nhất là trồng vào tháng 7 Âm lịch.

– Làm đất:

Sương sâm thích hợp trên nhiều chân đất, nơi đất cao ráo thoát nước tốt, có độ mùn cao, được che mát 20 – 30%. Cây cần nhiều nước nhưng không chịu úng nên những vùng đất thấp phải lên ụ hay lên liếp cao để thoát nước. nhưng để cây phát triển tốt thì chọn chân đất nhiều mùn, nhiều dinh dưỡng và có cây chà chống đỡ. Trồng theo hàng phải làm luống.

– Trồng:

Chọn những cây lá tốt sinh trưởng mạnh (lá xanh bóng, mượt, kích thước lá to), tách ra đem trồng, vào tháng 5 Âm lịch khi có mưa nhiều thì sương sâm sẽ bị chết, phải thu gom cây con, hạt giống đem cất để chuẩn bị cho năm sau.

– Trồng cây con gieo sẵn vào từng hàng vào đất (ngập 2/3 đoạn thân vừa cắt), sau đó tưới nước nhẹ cho cây đủ ẩm. Hàng ngày tưới nước 2 lần cho cây.

– Bón phân: Lượng phân bón cho 1.000m2 như sau:

+ Bón lót: Phân chuồng hoai 1,5 tấn, phân lân 35kg.
+ Bón cho cây đang thu hoạch, phân chuồng ủ hoai + phân NPK: 16-16-8 liều lượng 5kg phân chuồng + 200g phân NPK: 16-16-8/năm/gốc chia làm nhiểu lần trong năm (3 – 5 lần bón)
+ Để bảo đảm vườn luôn xanh tốt, thường xuyên tăng cường bón phân hữu cơ hoai mục, hạn chế bón phân đạm.

– Phòng trừ sâu bệnh và thu hoạch:

Lá sương sâm là loại cây trồng ít sâu bệnh hại, sương sâm rất sợ úng, úng sẽ dễ bị bệnh, đặc biệt là bệnh thối rễ, chết nhanh. Nếu đất không được tơi xốp và thoát nước thì bệnh chết nhanh có điều kiện phát triển mạnh, gây chết dây hoàn toàn. Trong trường hợp trồng cây với mật độ dầy thì những lá phía dưới hay bị cháy, dùng Fe-EDTA tưới thì lá phát triển diêp lục sẽ xanh lại.

Sau khi trồng khoảng 2 tháng thì có thể thu hoạch lá. Tùy theo mục đích sử dụng mà cắt nguyên đoạn thân hoặc hái lá làm Sương sâm và để lá càng xanh đậm càng tốt.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Kỹ Thuật Trồng Cây Kim Tiền Thảo

Có thể trồng bằng hom thân hoặc cành nhưng tốt nhất là bằng gieo hạt thẳng vì hạt giống sẵn và đỡ tốn công hơn.

Kim tiền thảoCây kim tiền thảo hay còn gọi là cây mắt nai, đồng tiền, mắt trâu, mắt rồng.

Giá trị kinh tế: là nguồn dược liệu quan trọng để chữa sỏ mật, sỏi thận, bàng quang, phù thũng, bệnh về thận, khó tiêu.

Kinh nghiệm nhân dân thường dùng toàn thân tươi, phơi hoặc sao khô, sử dụng dưới dạng thuốc sắc hoặc pha chè để uống, dùng riêng hoặc phối hợp với một số loại thuốc khác.Gần đây, một số cơ sở điều chế thành thuốc “Kim tiền thảo” đóng noi chuyên trị sỏi thận, được nhiều người tin dùng có hiệu quả tốt.

Ngoài ra kim tiền thảo còn là cây họ đậu rễ có nhiều nốt sần chứa vi khuẩn cố định đạm cộng sinh, có tập tính sống theo dạng bò lan trên mặt đất nên có tác dụng cải tạo, chống xói mòn, giữ nước và bảo vệ đất rất tốt.

Đặc điểm hình thái
Cây thân thảo, mọc bò cao 30- 50 cm  có khi tời 80cm, đường kính thân 0,3-0,4cm, có nhiều đốt, mỗi đốt cách nhau 2-3cm. Mặt dưới của thân có nhiều rễ phụ ăn sâu vào đất, rễ phụ tập trung nhiều mắt đốt và gốc lá. Vỏ màu nâu có lông màu hung, dai và dễ bóc. Cành nhánh nhiều, ngọn non dẹt và có phủ long tơ màu trắng, mọc ra từ các đốt của thân. Rễ gốc và rễ thân phát triển mạnh và lúc non  đều có nốt sần màu nâu hơi trắng, chứa nhiều vi khuẩn cố định đạm cộng sinh:

Lá mọc so le gồm 1 hoặc 3 lá chét, tròn, dài 1,8-3,4 cm, rộng 2=3,5cm, đầu và gốc lá hơi lõm, hình dạng giống con mắt hay đồng tiền. Mặt dưới của  lá có lông trắng bạc, mặt trên có gân nổi rõ, cuống dài 2-3cm.

Hoa màu tím mọc thành chùm ở kẽ lá, dài 7cm, có lông vàng. Hoa mọc khít nhau, màu đỏ tía, dài 4mm, cánh 5mm, nhị đơn liền. Quả đậu nhỏ, rộng 3,5 mm có 3-6 ngăn chứa hạt, phần giữa các ngăn chứa hạt hơi thắt lại, vỏ quả có lông ngắn trắng. Mùa hoa từ tháng 3-5.

Đặc tính sinh thái

Mọc hoang khắp vùng đồi núi trung du nước ta, độ cao dưới 600 m so với mực nước biển, gặp nhiều ở Quảng Ninh, Hải Dương, Phú Thọ…

Thích hợp điều kiện nhiệt độ nóng ẩm hoặc ẩm mát, đất ít chua, có thành phần cơ giới trung bình, ẩm và thoát nước nhưng cũng chịu được đất chua, nghèo xấu và khô hạn. Ưa sáng nhưng cũng chịu được bòng râm, sống lưu niên, tái sinh hạt, chồi gốc, chồi thân, chồi cành đều khoẻ.

Kỹ thuật gieo trồng

* Điều kiện gây trồng:

Không có đòi hỏi khắt khe về điều kiện khí hậu và đất đai.

Thích hợp nhất là vùng trung du miền núi có độ cao dưới 300-400 m so với mặt nước biển.

Khồng trồng ở vùng giá rét, đất ngập úng, bí chặt, đất kiềm mặn hoặc dưới bóng che quá rậm rạp quanh năm.

* Nguồn giống:

Có thể trồng bằng hom thân hoặc cành nhưng tốt nhất là bằng gieo hạt thẳng vì  hạt giống sẵn và đỡ tốn công hơn.

Vào tháng 4-5 khi quả chín vỏ có màu nâu thì thu hái, phơi khô đập mạnh để tách vỏ, sảng sảy kỹ loại bỏ tạp chất thu lấy hạt.

Phơi khô hạt dưới nắng nhẹ, cho vào túi nilông buộc kín bảo quản thông thường, để nơi khô ráo thoáng mát, chú ý  chống kiến vì hạt có mùi thơm hấp dẫn.

* Gieo trồng và chăm sóc:

Có thể trồng toàn diện theo hàng dưới tán rừng thưa, trong các vườn quả hai theo đám lỗ trống, nhất là tận dụng đất ở giai đoạn rừng chưa kép tán để kết hợp che phủ đất.

Nơi đất trống trồng xem theo băng ngang dốc giữa các băng cây chính để hạn chế dòng chảy mặt, chống xói mòn và giữ đất. Cự ly băng rộng 5-7m  hoặc 10 m tùy quỹ đất.

Thời vụ gieo trồng thích hợp vào vụ xuân hay đầu mùa mưa khi đất đã đủ ẩm chưa có những trận mưa to.

Mật độ trồng khi ổn định khoảng 1000-1500 cây/ha, cự ly 1mx1m hoặc o,8×0,8m. Làm đất toàn diện, cuốc hố hay cày theo rạch sâu và rộng 5-10cm. Nơi đất xấu  có điều kiện bón lót 1-1,5 tấn phân hữu cơ vi sinh theo rạch trước khi gieo hạt.

Ngâm hạt trong nước ấm 40-500C (3 sôi + 2 lạnh) trong 4-5 giờ, vớt ra để ráo. Trộn hạt với tro, cát hay đất mịn khô đêm gieo thẳng, lấp đất kín hạt dày 2-3cm, tủ rơm rạ đã khử trùng lên rạch sau khi lấp đất. Lượng hạt gieo 1kg/ha.

Dỡ bỏ vật che tủ khi hạt  nảy mầm, chú ý đề phòng kiến tha hạt vào sâu, dế cắn mầm.

Cây được 3-4 lá thì bắt đầu tỉa dặm cây, điều kiện mật độ ổn định. Cây được 5-10 lá nhổ cỏ xới đất vun gốc cho cây.

Thu hoạch chế biến và thị trường

Trồng  1 lần có thể thu hoạch nhiều lần, nhiều năm. Thường 2-3 năm hoặc có thể lâu hơn mới trồng lại như ở trong nơi đất tốt hoặc có điều kiện làm cỏ bón phân, cày xới chăm sóc đầy đủ, cẩn thận.

Thu hái 1-2 lần/năm vào vụ hè thu và vụ thu. Cắt toàn bộ phần cành lá trên mặt đất, chứa lại phần thân sát gốc dài 4-5cm để tái sinh chồ cho lần sau.

Rửa sạch rồi phơi thật khô sản phẩm đã thu hoạch cho vào bao tải hoặc bao nilông giữ nơi khô ráo thoáng mát để bán cho cơ sở thu mua dược liệu.

Năm 2000-2001 ở Chí Linh- Hải Dương đã có nhiều hộ trồng trên đất dốc ở các rừng keo và trại cây ăn quả như vải, nhãn.. cho kết quả tốt, giá bạn tại nhà là 6000đ/kg cành lá khô.

Nhân dân nhiều nơi thu hái cây kim tiền thảo mọc tự nhiên trộn với một số lá khác bán ở chợ được nhiều người ưa thích, mua để uống hàng ngày thay chè.

* Chú ý: Hiện chưa có thị trường ổn định nên mới được gây trồng một cách tự phát.

Chưa có nghiên cứu đầy đủ và quy trình khép kín gieo trồng đến thu hoạch chế biến và sử dụng để có năng

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Cây Đỗ Trọng Eucomia Ulmoides Olive

Đỗ trọng không kén đất lắm, có thể là đất đồi, đất dốc, đất bằng trên cao đều sống được. Tuy vậy nơi đất dày, tơi xốp nhiều mùn, ẩm nhưng thoát nước, độ chua vừa phải

Công dụng:

Cây đỗ trọngĐỗ trọng là cây thuốc quý, sản phẩm của nó chủ yếu là vỏ. Vỏ đỗ trọng là loại thuốc bổ dưỡng tốt và không thể thiếu trong các phương thuốc thảo dược cổ truyền. Nó chữa được các bệnh như thận, huyết áp, đại tràng và nhiều bệnh khác. Lá cây cũng có thể chữa được nhiều bệnh và là loại lá uống nước giải nhiệt, được người dân Sa Pa, Lào Cai thường dùng.

Gỗ màu trắng, cứng, không phân biệt giác, lõi, có thể làm đồ gia dụng, nông cụ, hoặc dùng trong kiến trúc.

Yêu cầu khí hậu, đất đai:

Đỗ trọng là cây á nhiệt đới, nhưng phạm vi thích ứng tương đối rộng. Đỗ trọng có thể phân bố nơi có nhiệt độ trung bình hàng năm 13-17°C, lượng mưa từ 500-1500mm. Nhiệt độ tháng giêng trên 0°C và tháng 7 nóng nhất dưới 29°C.

ở Sa Pa (Lào Cai) có nhiệt độ bình quân năm là 15,8°C, nhiệt độ trung bình tháng giêng là 10,2°C, tháng 7 là 20,4°C, lượng mưa là 2374.4mm. Như vậy về mặt nhiệt độ là hoàn toàn phù hợp; lượng mưa cao hơn nhưng phần lớn mưa vào tháng 5 đến tháng 9, là mùa sinh trưởng, như vậy thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây.

ở Sa Pa đã trồng ở các độ cao 1200-1300m; 1500-1600m và 2000-2100m, đỗ trọng đều sinh trưởng bình thường và cho sản phẩm khá.

Qua thực tiễn ở Sa Pa và một số nơi khác thì các tỉnh vùng núi phía Bắc, những nơi có độ cao trên 1000m có điều kiện khí hậu tương tự Sa Pa, đều có thể trồng đỗ trọng.

Đỗ trọng không kén đất lắm, có thể là đất đồi, đất dốc, đất bằng trên cao đều sống được. Tuy vậy nơi đất dày, tơi xốp nhiều mùn, ẩm nhưng thoát nước, độ chua vừa phải (độ pH 5-7,5) thì đỗ trọng sinh trưởng tốt; nhưng nơi có điều kiện khí hậu phù hợp nhưng đất xấu thì phải tăng cường bón phân chuồng, tăng cường xới xáo cũng thu được kết quả.

Đỗ trọng là cây ưa sáng nên cần trồng thưa, không nên trồng dưới tán cây khác.

Đỗ trọng có cây đực, cây cái riêng rẽ, vì vậy nếu trồng để lấy hạt giống thì nên có từ 15-20% số cây là đực để giúp cho việc thụ phấn tốt. Theo tài liệu nước ngoài, nếu trồng bằng cây con mọc từ hạt thì tỷ lệ đực/cái khoảng 4/6.

Đỗ trọng có khả năng tái sinh chồi rất mạnh, cây chồi mọc rất nhanh; người ta có thể lợi dụng đặc tính này để kinh doanh rừng chồi.

Kỹ thuật gây trồng:

Chọn lấy hạt giống ở những cây mẹ khỏe mạnh, trên 20 tuổi. Cây ra hoa tháng 6-7, quả chín vào tháng 8-9. Khi thấy vỏ quả từ màu xanh chuyển sang màu nâu hay màu vàng xám, hạt tròn, để trên cây khoảng một tháng sau cho chín đều rồi thu hoạch. Khi thu hái thường dọn sạch ở dưới, hứng vải bạt hoặc ni lông, vào buổi chiều lặng gió hoặc ít gió thì rung cho quả, hạt rụng rồi thu lượm về nhà. Hạt nhỏ, sau khi thu hoạch xong không nên phơi ra nắng mà chỉ hong nơi khô thoáng 3-4 ngày để tách hạt. Hạt sau khi làm sạch được cho vào túi hoặc lọ, cất khô, để nơi thoáng mát (nhiệt độ 15-20°C) đến mùa xuân (tháng 2-3) thì đem gieo. Hạt trước khi gieo có thể ngâm vào nước nóng 40°C để nguội rồi rửa hạt đem gieo.

Đất vườn ươm cần làm nhỏ, kỹ, đánh luống cao 20-30cm, bón lót bằng phân chuồng hoai 5-10kg cho một luống 10m2. Hạt đỗ trọng nhỏ nên khi gieo cần trộn hạt với tro hoặc đất mùn, khác màu với đất luống để gieo cho đều, gieo xong rắc một lớp mùn mỏng rồi dùng rơm rạ phủ lên mặt luống giữ ẩm; tưới nước 2-3 ngày một lần.

Sau khi cây nẩy mầm 10-15 ngày, có khoảng 2-3 lá thì bón thúc bằng nước phân loãng. Cây cao được 5-6cm thì cấy vào bầu. Thành phần ruột bầu ở Sa Pa làm là đất 95%, phân chuồng 4%, phân NPK 1%. Bầu có đường kính 8-10cm. Sau khi cấy cây vào bầu cần làm giàn che, hàng tháng t­ưới phân urê 1 lần với nồng độ 0,1kg/10 lít nước tưới cho 1-2 luống, hoặc cũng có thể tưới bằng nước tiểu loãng. Trước khi đem trồng 2-3 tháng thì ngừng bón thúc để cây cứng.

Ngoài ra cũng có thể dùng biện pháp chiết cành để lấy cây con đem trồng. Song bằng cách này thì thường là có số lượng ít, không thỏa mãn yêu cầu trồng nhiều. Phương pháp chiết tương tự như chiết các loài vải, cam, quýt.

Cây con thường ươm ở vườn 1 năm (10-12 tháng). Vào cuối đông, đầu xuân có thể đem trồng.

Hố cần đào trước khoảng nửa tháng. Khi trồng cần bón lót bằng phân chuồng hoai, mỗi hố 2-3kg, trộn đều với đất. Hố đào 30x30x30cm. Tùy theo có trồng nông lâm kết hợp hay không mà trồng dày hay thưa. Nếu không trồng nông lâm kết hợp thì có thể trồng với mật độ 2500 cây/ha (khoảng cách giữa các cây 2x2m) hoặc 1600 cây/ha (khoảng cách giữa các cây 2x3m).

Có thể trồng đỗ trọng xen với cây ăn quả như đào, lê, mận. Cần chú ý đỗ trọng là cây ưa sáng nên không được để tán cây ăn quả che lấp đỗ trọng thì mới đạt kết quả. Có thể trồng cây ăn quả cách cây đỗ trọng 8-10m. Lúc đầu đất còn trống có thể trồng rau, lạc, đậu ở dưới; về sau khi cây lớn có thể tỉa cành cho đỗ trọng để nó mọc vươn cao, tạo khoảng thân dưới cành dài, thu hoạch vỏ sẽ được nhiều hơn.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Atisô Dễ Trồng, Nhiều Công Dụng

Atisô là loại cây lá gai lâu năm có nguồn gốc từ miền Nam châu Âu – quanh Địa Trung Hải, được người cổ Hy Lạp và La Mã trồng để lấy hoa làm rau ăn.

Trồng actisôAtisô có thể cao đến 1,5 – 2m, lá dài từ 50 – 80cm, du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, được trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, và nhiều nhất là ở Đà Lạt. Atisô tốt cho tim mạch, hệ tiêu hóa, giảm cholesterol, giảm lượng đường máu, giải độc gan…

Hiện nay trên thế giới có các dạng giống chính về atisô như sau:

– Dạng chuyên bông: 
Cây thấp, tán nhỏ, mật độ trồng dày, thời gian sinh trưởng ngắn. Mục đích chính là thu hoạch bông nên có năng suất bông cao và chất lượng ngon.

– Dạng chuyên lá: Cây cao, tán rộng, lá lớn thường chứa hoạt chất cynarin cao, mật độ trồng thưa, thời gian sinh trưởng dài. Mục đích chính là thu hoạch sản phẩm lá để đưa vào chế biến dược liệu.

– Dạng trung gian bông và lá: 
Chiều cao và tán cây ở mức độ trung bình, có thể trồng để sử dụng hai mục đích là thu hoạch bông và lá.

Có 2 vụ trồng: Vụ sớm vào tháng 5 – 6, vụ muộn vào tháng 7 – 8. Nếu trồng atisô vì mục đích cung cấp sản phẩm lá điều chế dược liệu thì nên trồng vụ sớm và chỉ trồng ở vùng đất cao ráo. Mật độ trồng, khoảng cách giữa các cây là 65 – 70cm nếu trồng dày và 80 – 90cm nếu trồng thưa.

Về đất trồng, atisô thích hợp với điều kiện đất nhiệt trung bình, hàm lượng hữu cơ 5 – 7%, giữ ẩm và thoát nước tốt. Ẩm độ đất trong vụ khô cần trên 80%, tuy nhiên nếu ẩm độ đất quá cao và kéo dài trong vụ mưa sẽ dễ gây bệnh chết cây con.

Độ pH thích hợp là 6 – 6,5. Đối với điều kiện đất Đà Lạt thì hàng năm phải bón vôi để duy trì độ pH ổn định, nhất là vùng đất thấp. Đất trồng nên chọn đất nhẹ đến trung bình (đất podzolic vàng đỏ), loại đất tốt, thoát nước, giữ ẩm tốt. Nên thực hiện chế độ thâm canh, hay trồng hai vụ liên tiếp, sẽ giảm năng suất và sâu bệnh nhiều. Tốt nhất nên luân canh với các cây họ đậu, rau và hoa.

Đất trồng được bón bằng phân chuồng đã ủ hoai mục và super lân, vôi bột.

Quy cách luống ươm: 1,2 – 1,3m; trồng: 4 – 5 hàng, cây x cây: 15 – 20cm.

Sau khi trồng phủ cỏ khô để giữ ẩm và tưới nước 2 lần/ngày (nếu trời nắng). Giữ ẩm sau 7 – 10 ngày dỡ bỏ lớp che phủ ra. Sau cây hồi sinh bén rễ sử dụng DAP, NPK 16-16-8 để bón thúc 2 lần.

Có thể sử dụng các loại phân bón lá để phun xịt cây con sinh trưởng tốt. Chú ý không nên sử dụng chế độ bón phân đạm cao sẽ ảnh hưởng đến chất lượng cây con.

Để phòng trừ sâu bệnh cho vườn ươm định kỳ 7 ngày/lần xịt các loại thuốc như: rovral, moncerew, zineb, topsin và các loại thuốc sâu như: sumicidin, pegasus…

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Kỹ thuật trồng cây Su Hào

Thời gian sinh trưởng từ gieo đến thu hoạch 75 – 80 ngày, do đó có thể trồng xen vào mép luống cải bắp, khoai tây.

– Tên khoa học: Brassica caulorapa Pasq. hoặc Brassica oleracea var. caulorapa, thuộc họ Thập tự: Cruciferae.

Thân của cây phát triển phình to ra thành củ khí sinh, trong chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, và được dùng làm thực phẩm (rau). Tuy cũng có những đòi hỏi giống như cây cải bắp về các điều kiện sống, nhưng có thể chịu được nóng hơn cải bắp 2 – 3oC. Vì vậy su hào có thể trồng sớm và muộn hơn cải bắp được, do đó góp phần chống giáp vụ rau trong vụ xuân hè.

Su hào lại không đòi hỏi lắm đối với đất cũng như phân bón.

Kỹ thuật trồng cây su hào.

a) Các giống su hào trồng ở nước ta.

Thường có 3 giống.

– Su hào dọc tăm (su hào trứng): củ bé, tròn, cọng lá nhỏ, phiến lá nhỏ và mỏng. Tiêu biểu là giống su hào Sa Pa cũ.

Thời gian sinh trưởng từ gieo đến thu hoạch 75 – 80 ngày, do đó có thể trồng xen vào mép luống cải bắp, khoai tây.

– Su hào dọc trung (hay su hào dọc nhỡ): củ tròn, to, mỏng vỏ, cọng và phiến lá to hơn, dày hơn loại su hào dọc tăm. Điển hình là su hào Hà Giang.

Thời gian sinh trưởng 90 – 105 ngày.

– Su hào dọc đại (su hào bánh xe): củ to hơi dẹt, vỏ rất dày, cọng và phiến lá rất to, dày. Thời gian sinh trưởng 120 – 130 ngày. Đặc trưng là su hào Tiểu Anh Tử (Trung Quốc) hoặc Thiên Anh Tử (Nhật Bản).

b) Thời vụ gieo trồng:

– Vụ sớm gieo từ tháng 7 đến tháng 8, chủ yếu dùng loại su hào trứng. Tuổi cây giống 25 ngày.

– Vụ chính: gieo tháng 9 đến hết tháng 10. Dùng các giống su hào nhỡ và su hào dọc đại để thu hoạch được dài ngày. Tuổi cây giống 30 – 35 ngày.

– Vụ muộn: gieo tháng 11, chủ yêu dùng loại su hào dọc tăm và một phần loại dọc nhỡ để có thể kéo dài thu hoạch tới tận cuoói tháng 4 năm sau.

Tuổi cây giống 25 – 30 ngày.

c) Trồng su hào.

Trước khi nhổ cấy 4 – 5 hôm không tưới nước, tưới phân nữa để rèn luyện cây giống, bắt chúng phát triển bộ rễ mới và sau này cấy ra cây mau bén rễ.

Đến lúc nhổ cấy nên tưới nước trươcs một buổi cho dễ nhổ.

– Dọc tăm trồng với khoảng cách 20 x 25 cm (5.500 cây/sào).

– Dọc nhỡ với khoảng cách 30 x 35 cm (2.700 – 2.800 cây/sào).

– Dọc đại trồng với khoảng cách 35 x 40 cm (2.000 – 2.100 cây/sào).

Đảm bảo mật độ từ 55.000 đến 75.000 cây/ha.

Rễ cái cây giống dài có thể cắt bớt đi cho mau ra rễ mới. Dùng giằm (xén) hay cuốc con bới đất ra, đặt cây giống theo chiều tự nhiên của nó, lấy tay hay giằm hoặc cuốc con khẽ nhấn đất vào gốc là được.

d) Bón lót:

Yêu cầu bón lót cho 1 ha su hào như sau: Phân chuồng đã hoai mục: 15 – 20 tấn. Phân lân: 90 – 120 kg.

Phân kali: 40 – 50 kg.

Trộn đều lại với nhau rồi bón rải lên mặt luống khi làm đất; đảo kỹ phân với đất rồi trồng.

e) Chăm sóc:

– Tưới nước: Sau khi trồng xong phải tưới nước ngay, sau đó ngày tưới 2 lần vào buổi sớm và chiều mát.

Tưới như thế trong 5 – 6 ngày. Bảy ngày sau khi cấy thì bón thúc kết hợp tưới. Tưới sao giữ được độ ẩm cho đất trong suốt thời gian sinh trưởng.

– Bón thúc: Thúc lần đầu sau khi cây đã bén rễ bằng phân chuồng pha loang 20%. Sau đó cứ một tuần lễ lại thúc một lần. Lượng phân đạm để thúc suốt quá trình sinh trưởng từ 150 – 200 kg urê cho 1 ha. Chú ý, su hào càng lớn lượng phân thúc càng tăng. Thúc lần cuối trước khi thu hoạch một tuần để củ nây đều, mỏng vỏ.

– Vun xới: Xới xáo làm hai lần: lần đầu vào sau khi ra ngôi được 15 – 20 ngày, lần thứ hai sau lần trước khoảng 15 ngày.

g) Phòng trừ sâu bệnh:

Tất cả các loại sâu bệnh hại cải bắp cũng đều hại si hào, đặc biệt là rệp rau: chúng tập trung ở phần nõn củ và lá non mới nhú để chích hút làm cho các bộ phận này bị teo đi, su hào không lớn được. Phải phát hiện kịp thời và dùng dipterêc pha 1/1600 để phun trừ.

h) Thu hoạch:

Căn cứ vào thời gian sinh trưởng của từng giống, từng vụ và thấy mặt củ đã bằng, lá non dừng sinh trưởng thì thu hoạch: kéo dài thêm sẽ già, nhiều xơ, giảm phẩm chất. Năng suất su hào của ta hiện nay từ 16 – 30 tấn/ha (6 – 10 tạ/sào).

Để giống su hào.

Gieo hạt vào tháng 9 đến cuối tháng 10 để trồng vào tháng 11, tháng 12.

Để giống cần bón lót nhiều kết hợp với lượng lân và kali gấp đôi ở đại trà: lượng đạm giảm đi từ 1/2 – 2/3. Cây sinh trưởng bình thường thì không cần dùng đạm để thúc.

Thời vụ thu hoạch và hong phơi lấy hạt su hào cũng giống như với cải bắp.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Trồng rau ăn lá an toàn bằng phương pháp che phủ lưới

Mô hình trồng rau ăn lá bằng phương pháp che phủ lưới là mô hình trồng rau mang lại hiệu quả kinh tế cao với chi phí thấp

Các loại rau ăn lá như cải ngọt, cải xanh, cải cúc… là loại rau ngắn ngày, có nhu cầu tiêu thụ lớn, sớm cho thu hoạch chỉ sau gieo từ 4 đến 6 tuần; có thể gieo trồng được nhiều vụ trong năm, đem lại mức thu nhập cao trên một đơn vị diện tích gieo trồng. Mô hình trồng rau ăn lá bằng phương pháp che phủ lưới là mô hình trồng rau mang lại hiệu quả kinh tế cao với chi phí thấp:

Chọn đất gieo trồng: Chọn những vùng đất cao ráo, tơi xốp, thoát nước tốt, giàu dinh dưỡng, sạch sâu bệnh, cỏ dại để trồng rau ăn lá. Nên tránh xa các nguồn nước thải thành phố, xa bệnh viện và các khu công nghiệp. Nên luân canh cây trồng để hạn chế nguồn sâu bệnh.

Xử lý đất: Nếu có điều kiện về nguồn nước nên dẫn nước vào ngâm đất sâu 15-20cm khoảng 3-4 hôm rồi rút cạn nước, phơi đất khô trước khi làm đất để loại bớt nguồn sâu bệnh hại.

Làm đất: Đất cần được cày bừa kỹ, lên luống cao 20-25cm, rãnh rộng 30cm, mặt luống rộng 100cm. Nhặt sạch cỏ dại, đập nhỏ đất, san phẳng mặt luống bằng đất nhỏ mịn.

Bón lót phân chuồng và thêm một lượng NPK nhằm giúp cây có đủ dinh dưỡng trong quá trình sinh trưởng, phát triển. Lượng phân bón lót tính cho 1 sào Bắc bộ gồm: 300-400kg phân chuồng hoai mục + 5kg phân đạm + 10kg supe lân và 3kg kali clorua. Dùng cuốc xới lại để trộn đều phân với đất trước khi gieo hạt.

Gieo hạt: Sử dụng hạt giống chất lượng để gieo nhằm đảm bảo độ nẩy mầm cao. Gieo vãi hạt giống trên mặt luống. Chú ý gieo đi, gieo lại 2-3 lần cho đều. Lượng hạt giống thường sử dụng khoảng 3-5g/m2 mặt luống.

Làm vòm lưới che phủ: Vật liệu làm vòm che phủ là các thanh tre dài 1,8-2m, bản rộng 3-4cm uốn cong, vát nhọn 2 đầu để cắm sâu xuống 2 bên thành luống cách nhau 2m tạo thành vòm cung cách mặt luống từ 70 đến 100cm. Dùng lạt buộc cố định các thanh tre, nứa chạy dọc theo luống với các thành vòm tạo thành khung đỡ lưới nilon. Dùng lưới che phủ (loại 32 lỗ/2,5cm2) để che phủ toàn bộ mặt luống. Dùng đất chèn kỹ chân lưới 2 bên mép luống vừa tránh gió lật, vừa ngăn cản côn trùng, sâu hại xâm nhập vào bên trong gây hại. Tuỳ theo mùa vụ mà chọn màu lưới cho phù hợp với ánh sáng để che phủ: Mùa hè dùng lưới xanh hoặc đen, mùa đông nên chọn lưới màu trắng.

Tưới nước: Sau khi che phủ lưới xong tiến hành dùng nước sạch tưới trực tiếp trên lưới bằng thùng ô roa nhằm cung cấp đủ độ ẩm cho hạt nhanh nẩy mầm, mọc đều và mọc khoẻ. Sau 4-5 ngày hạt sẽ nẩy mầm và phát triển thành cây.

Chăm sóc: Sau gieo 15-20 ngày chú ý làm sạch cỏ dại, cung cấp đủ nước tưới cho rau sinh trưởng, phát triển tốt bằng cách tưới thùng ô roa qua lưới hoặc dẫn nước vào rãnh cho ngấm dần vào mặt luống rồi lại tháo hết nước ra. Có thể vén lưới để chăm sóc rồi lại che phủ trở lại như cũ sau khi kết thúc. Phần lớn các loại rau ăn lá ngắn ngày nếu được bón lót đầy đủ sẽ không cần phải bón thúc thêm. Tuy nhiên, nếu thấy cần thiết có thể bón thúc thêm bằng phân chuồng hoai mục, và NPK tổng hợp hoặc các loại phân bón qua lá nhưng phải đảm bảo thời gian cách ly 10 ngày trước khi thu hoạch không được bón, tưới phân đạm nữa. Trong trường hợp phát hiện có các bệnh hại do nấm hoặc sâu gây hại, có thể dùng các loại thuốc trừ sâu có nguồn gốc vi sinh hoặc thảo mộc để phun trừ.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

  • Trao đổi kinh nghiệm và kỹ thuật trồng cây , kỹ thuật chăm sóc cây cảnh tại Việt Nam

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Trồng Ấu Và Rau Nhút Vào Mùa Nước Nổi

Cây ấu và rau nhút rất dễ trồng, ít vốn đầu tư, nhẹ công chăm sóc, ít sâu bệnh phá hại. Trong quá trình trồng, chỉ cần bón phân và phun thuốc dưỡng cây, ngừa sâu ăn lá và phòng bệnh cháy là là đủ

Thời vụ trồng ấu:
Bắt đầu từ giữa tháng 6 âm lịch đến cuối tháng 11 âm lịch

Kỹ thuật trồng ấu:

Dùng máy xới trục đất rồi khai nước vào ruộng để cấy ấu giống. Lúc đầu, khi mới cấy ấu cần giữ mặt nước cao từ 2 – 3 tấc cho ấu mau bén đất. Khi ấu vừa lớn, nước lũ tràn về mực nước cao bao nhiêu, dây ấu phát triển lên cao bấy nhiêu… Năm nào lũ lớn, nước rút chậm, thời gian thu hoạch ấu kéo dài, năm đó trúng mùa ấu. Thông thường, từ lúc cấy ấu giống đến khi thu hoạch bán trái là 2 tháng. Kế đó, cứ 1 tuần – 10 ngày thu hoạch trái 1 lần cho đến khi nước lũ rút… Hái trái ngày trước xong, ngày sau phải phun thuốc trừ sâu và thuốc dưỡng lá cho cây, trái mau lớn … Nếu thực hiện đúng quy trình kỳ thuật và phương pháp chăm sóc ấu trái đạt cao.

Kỹ thuật trồng rau nhút:

Trồng cây rau nhútTrước khi trồng phải bơm nước vào ruộng cao chừng  3 – 5 tấc, rồi chọn phần gốc của rau đem cấy xuống ruộng. Chú ý khi cấy rau nhút xong phải cặm một cây trúc nhỏ kế bên và dùng dây buộc gốc rau nhút vào cây trúc để gió không đẩy cọng rau nhút đi nơi khác. Thông thường, từ 10 – 15 ngày sau khi trồng, rau nhút sẽ phát triển và lan rộng ra khắp cả mặt nước trên ruộng. Tiếp đó khoảng nửa tháng, rau nhút bắt đầu cho thu hoạch. Sau khi cắt rau khoảng 3 ngày, cho 100 gram urê hoà tan với nước vào một bình xịt 8 lít rồi phun đều lên đám rau; đồng thời, thường xuyên cát tỉa lá rau sâu, già…. để kích thích rau mau phát triển. Vào mùa mưa, thân rau nhút thường bị nặng, dễ bị chìm … nên thả thêm bèo cám vào ruộng trồng rau để bèo nâng thân phao rau nhút lên… tránh bị ngập úng thân phao. Sau khi thu hoạch ấu, rau xong, dùng máy cày – trục nhấn dây ấu, rau nhút xuống đất để làm tăng thêm độ màu mỡ của đất, giúp nông dân nhẹ vốn đầu tư mua phân bón trong việc canh tác lúa vụ Đông xuân.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả

Kỹ thuật trồng Xà Lách Romaine

Xà lách Romain phù hợp với điều kiện khí hậu, nhiệt độ tại Đà Lạt, nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng phát triển

1. Đặc tính sinh học của rau xà lách

2. Điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng

Khí hậu: Xà lách Romain phù hợp với điều kiện khí hậu, nhiệt độ tại Đà Lạt, nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng phát triển từ 18 – 25°C, độ ẩm khoảng 80 – 90%. Thích hợp với quang chu kỳ ngày dài, tuy nhiên xà lách Romain có thể phát triển tốt cả về mùa mưa cũng như mùa nắng tại Đà lạt, trong điều kiện có nhà che plastic.

Thổ nhưỡng: Xà lách Romain có thể phát triển tốt ở nhiều loại đất khác nhau như: Sét nhẹ, bazan, feralit vàng đỏ… pH tối thích 5.5 – 6.5. Từ lúc gieo hạt cho đến lúc cho thu hoạch trong khoảng từ 60 – 65 ngày.

3. Quy trình trồng

Kỹ thuật làm đất: Đất được cày xới và dọn sạch tàn dư thực vật, bón vôi (để nâng pH lên 5.5 – 6.6) cày trộn đều trong đất phơi ải 1 – 2 tuần (có thể dùng các hóa chất, chế phẩm xử lý đất như: Mocap, Sincosin, Furadan, Basudin…) sau đó lên luống rộng 1,1m, rãnh 0,4m, cao 0,15m. Phân bón lót được rải đều trên bề mặt luống, trộn đều phân trên mặt luống, tưới ẩm đều và tiến hành phủ bạt nylong.

Đục lỗ 4 hàng để trồng cây theo khoảng cách: hàng cách hàng 25cm, cây cách cây 20cm, đục theo kiểu nanh sấu. Trước khi trồng tưới ẩm đều trên toàn bộ luống. (chú ý thoát nước tốt, tránh ứ đọng lâu sau khi mưa).

Phân bón (cho 1000m2)

Bón lót:

– Vôi: 80 – 120kg

– Phân chuồng hoai mục: 3 – 4 m3

– Super lân: 50kg.

– Nitrophoska 15 – 5 – 20: 35kg

– K2S04: 30kg

– Phân hữu cơ đậm đặc (Dynamic, hoặc Growell): 30kg

Bón thúc: Bón thúc một lần sau khi trồng 1 – 2 tuần nếu cây phát triển kém, có thể dùng Nitrophoska tím với lượng 10 – 15kg/sào bằng cách hòa loãng 0,5 % với nước rồi tưới đều trên luống.

Cách trồng:

– Cây giống: Giống được ươm trong vỉ xốp. Thời gian giống đạt tiêu chuẩn xuất vườn là 15 – 18 ngày, có 4 – 6 lá thật, cây phát triển cân đối, không có sâu bệnh, rễ phát triển mạnh.

– Mật độ trồng từ 9.000 – 11.000 cây/1000m2.

– Đặt cây vào giữa hố, lấp đất, nén nhẹ. Tránh trồng quá sâu hoặc quá cạn.

– Sau khi trồng nên chú ý độ ẩm trong vòng 10 ngày để giúp cây bén rễ tốt.

Chăm sóc:

Sau khi trồng cần giữ ẩm cho cây, tưới nhẹ từ 1 – 2 lần/ ngày trong tuần đầu tiên, sau đó mỗi ngày chỉ tưới 1 lần. Nếu trồng vụ mưa có thể tưới ít hơn.

Chú ý: Không sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm kim loại nặng, ô nhiễm vi sinh vật gây bệnh…

Phòng trừ sâu bệnh:

Xà lách Romain ít bị sâu bệnh phá hoại, nên phun phòng Zinep xanh 0,3% cho cây 15 ngày sau trồng và 25 ngày sau trồng. Dùng Sumi anpha, Regent… để phòng trừ sâu phá hoại.

Chú ý: Ngừng phun thuốc trước khi thu hoạch 10 – 15 ngày.

Thu hoạch, bảo quản: Khi cây phát triển tối đa, sau trồng từ 40 – 45 ngày, thì có thể thu hoạch.
Là loại cây thân thảo, ngắn ngày, dùng để ăn lá. Ngoài ra còn được dùng làm thuốc chữa bệnh vì trong thân có một loại dịch trắng như sữa nếu tách chiết sẽ thu được dược liệu.

  • Để tạo nên sân chơi lành mạnh , nơi giao lưu kinh nghiệm về Bonsai , Cây Cảnh

Mọi ý kiến , thắc mắc mời liên hệ : 0906 886 896 – 0934 661 749 Mr Tùng

Chúng tôi luôn mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của độc giả