Danh mục lưu trữ: Cây Bưởi

Quy Trình Quản Lý Cây Trồng Tổng Hợp Trên Cây Bưởi Diễn

Vùng trồng bưởi thích hợp cần tránh những vùng có độ dốc lớn, đất nhiễm phèn, mặn, những vùng có sương muối, gió bão gây hại.

1. Giới thiệu chung
Giống có nguồn gốc từ bưởi Đoan Hùng, được đưa về trồng đầu tiên tại xã Phú Diễn – huyện Từ Liêm – TP Hà Nội. Giống có quả tròn, vỏ quả nhẵn, khi chín màu vàng cam; khối lượng trung bình từ 0,8 – 1kg; tỷ lệ phần ăn được từ 55 – 60%; số hạt trung bình khoảng 50 – 70 hạt; múi và vách múi dễ tách rời nhau. Thịt quả màu vàng xanh, ăn giòn, ngọt, độ brix 12 -14 %. Với vườn cây từ 7 tuổi trở nên, năng suất đạt từ 25 – 28 tấn/ha trong điều kiện chăm sóc trung bình. Thời gian thu hoạch muộn hơn bưởi Đoan Hùng, thường trước tết nguyên đán khoảng 15 – 20 ngày. Hiện tại, cây bưởi Diễn được trồng ở khá nhiều vùng sinh thái khác nhau như: Hà Tây, Hưng Yên, Bắc Giang và ngày càng khẳng định tính ưu việt của giống so với các giống bản địa.

2. Một số yêu cầu ngoại cảnh

* Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ bình quân năm thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây bưởi là 12 – 39oC. Nhiệt độ thấp nhất gây chết là – 8 đến – 11oC, bưởi có thể chống chịu được khi nhiệt độ lên đến 48oC. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng của bưởi là 23 – 29oC. Những vùng có nhiệt độ bình quân năm trên 20oC và tổng tích ôn từ 2.500 – 3.500oC đều có thể trồng được bưởi.
Với yêu cầu như trên, điều kiện nhiệt độ tại Vân Đồn nằm trong ngưỡng thích hợp cho phát triển bưởi.
* Yêu cầu về nước và chế độ ẩm
Lượng mưa trung bình năm thích hợp cho trồng bưởi là 1.250 – 1.850 mm. Bưởi yêu cầu lượng mưa phân bố đều trong năm hơn lượng mưa lớn nhưng tập trung vào một số ít tháng. Bưởi cần nhiều nước ở thời kỳ bật mầm, phân hoá mầm hoa, ra hoa và  quả phát triển.  Bưởi không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp là 70 – 80%.
* Yêu cầu về đất đai
Vùng trồng bưởi phải đất phải có tầng canh tác dày ít nhất 0,6 – 1m; thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, đất tơi xốp, thông thoáng và thoát nước tốt. Đất phải giầu mùn, hàm lượng các chất dinh dưỡng phải đạt mức trung bình trở lên (hàm lượng mùn từ 2 – 3%; N tổng số: 0,1 – 0,15%; P2O5 dễ tiêu từ 5 – 7mg/100g; K2O dễ tiêu từ 7 – 10mg/100g; Ca, Mg: 3 – 4mg/100g).
pH KCl đất thích hợp nhất cho cây trồng bưởi là từ  5,5 – 6,0 song cũng có thể trồng được bưởi khi pH KCl từ 4,0 – 8,5 nhưng phải có biện pháp cải tạo đất.
* Yêu cầu về ánh sáng
Cường độ ánh sáng thích hợp cho trồng bưởi là 10.000 – 15.000 Lux (tương ứng với ánh sáng lúc 8 giờ sáng và 16 giờ chiều). Cần bố trí mật độ trồng dày hợp lý có được ánh sáng tán xạ, tránh được giám quả.
* Yêu cầu về các yếu tố khác
Vùng trồng bưởi thích hợp cần tránh những vùng có độ dốc lớn (trên 15o), đất nhiễm phèn, mặn, những vùng có sương muối, gió bão… gây hại.

3. Kỹ thuật trồng

a) Tiêu chuẩn giống trồng
Cây giống phải được nhân từ cây mẹ đầu dòng tuyển chọn và phải đạt tiêu chuẩn ngành 10 TCN – 2001, cụ thể: cây giống sản xuất bằng phương pháp ghép phải được tạo hình cơ bản trong vườn ươm, có ít nhất 2 cành cấp 1 và không nhiều quá 3 cành. Đường kính cành ghép cách điểm ghép đạt từ 0,5 – 0,7 cm; dài từ 50 cm trở lên; có bộ lá xanh tốt, không sâu, bệnh.
b) Chọn đất trồng và chuẩn bị đất trồng
* Chọn đất: có tầng dầy từ 1 m trở lên, kết cấu xốp để giữ mầu, và thoát nước tốt, giàu mùn. Độ dốc của đất từ 3 – 200 (tốt nhất là 3 – 80 ).  
* Chuẩn bị đất trồng
Bao gồm: phát quang, san mặt bằng; thiết kế vườn trồng; đào hố; bón phân lót và lấp hố; các công việc khác như làm đường, mương rãnh tưới tiêu nước,…
– Phát quang và san ủi mặt bằng
Đối với những đồi rừng chuyển sang trồng cây ăn quả nói chung và trồng bưởi Diễn đều phải phát quang, thậm chí phải đánh bỏ toàn bộ rễ cây rừng và san ủi tạo mặt phẳng tương đối để cho việc thiết kế vườn được dễ dàng. Trừ những nơi đất quá dốc ( từ khoảng 100 trở lên ) sẽ áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, nghĩa là chỉ phát quang, dãy cỏ, san lấp những chỗ quá gồ ghề sau đó thiết kế và đào hố trồng cây, còn ở những nơi đất không quá dốc hoặc bằng, sau khi phát quang, san ủi sơ bộ có thể dùng cày máy hoặc cày trâu cày bừa một lượt để vừa sạch cỏ vừa tạo cho bề mặt vườn tơi xốp ngăn được sự bốc hơi nước của vườn sau khi bị phát quang.
Đối với các loại đất chuyển đổi khác sang trồng bưởi Diễn cũng cần phải dọn sạch  và tạo lại mặt bằng trước khi thiết kế.
– Thiết kế vườn trồng
+ Tuỳ theo quy mô diện tích và địa hình đất mà có thiết kế vườn trồng một cách phù hợp. Đối với đất bằng hoặc có độ dốc từ 3 – 50 nên bố trí cây theo kiểu hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình tam giác (kiểu nanh sấu). Đất có độ dốc từ 5 – 100 phải trồng cây theo đường đồng mức, khoảng cách của hàng cây là khoảng cách của đường đồng mức. Ở độ dốc 8 – 100  nên thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang đơn giản, dưới 80 có thể áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu, trên 100 phải thiết kế đường đồng mức theo kiểu bậc thang kiên cố.
+ Đối với vườn diện tích nhỏ dưới 1ha không cần phải thiết kế đường giao thông, song với diện tích lớn hơn thậm chí tới 5 – 10 ha cần phải phân thành từng lô nhỏ có diện tích từ 0,5 đến 1ha/lô và có đường giao thông rộng để có thể vận chuyển vật tư phân bón và sản phẩm thu hoạch bằng xe cơ giới, đặc biệt đối với đất dốc cần phải bố trí đường lên, xuống và đường liên đồi. Độ dốc của đường lên đồi không quá 100.
+ Bố trí mật độ, khoảng cách
Mật độ trồng phụ thuộc vào và khả năng đầu tư thâm canh. Thông thường đối với bưởi Diễn trồng với khoảng cách 5m x 4m (tương ứng với 500 cây/ ha).  Đối với những vùng đất tốt hoặc có điều kiện đầu tư thâm canh và áp dụng các biện pháp đốn tỉa hàng năm có thể bố trí mật độ dày hơn (600 cây/ha).
Ở những vùng đất dốc, hàng cây được bố trí theo đường đồng mức và khoảng cách giữa 2 đường đồng mức là khoảng cách giữa 2 hình chiếu của cây. Khoảng cách cây được xác định như nhau trên cùng một đường đồng mức, đường đồng mức dài hơn thì có số cây nhiều hơn.
– Đào hố trồng và bón lót
+ Kích thước hố rộng  0,8 – 1 m sâu 0,8 – 1 m. Đất xấu cần đào rộng hơn.
+ Bón phân lót cho 1 hố: 
Bót lót cho mỗi hố 30 – 50 kg phân chuồng hoai (hoặc 5 – 7 kg phân vi sinh) + 1 kg supelân + bón vôi đủ điều chỉnh pH đất về ngưỡng thích hợp (từ 6 – 6,5). Toàn bộ lượng phân lót trên được trộn đều với tầng đất mặt và lấp hố. Lượng đất lấp hố cao hơn bề mặt hố từ 7 – 10 cm, dùng cọc thiết kế vườn đánh dấu tâm hố. Hố cần phải chuẩn bị trước khi trồng ít nhất 1 tháng.
c) Trồng cây
* Thời vụ trồng và cách trồng
– Trong điều kiện sinh thái huyện Vân Đồn thời vụ trồng tốt nhất vào tháng 2, 3 (có thể trồng vào tháng 8,9).
– Cách trồng: Đào 1 hố nhỏ chính giữa hố trồng, đặt cây vào hố lấp đất vừa bằng cổ rễ hoặc cao hơn 2- 3 cm. Không được lấp quá sâu, trồng xong phải tưới ngay và dùng cỏ mục ủ gốc (lưu ý phải cách gốc từ 10- 15 cm để tránh sâu bệnh xâm nhập).
* Chăm sóc sau khi trồng 
– Tưới nước
Thường xuyên giữ ẩm trong vòng 20 ngày đến 1 tháng để cây hoàn toàn bén rễ và phục hồi. Sau đó tuỳ thời tiết nắng mưa để chống hạn hoặc chống úng cho cây. Trước khi thu hoạch 1 tháng ngừng tưới nước.
Về lượng nước tưới và số lần tưới phải dựa vào khả năng giữ nước của đất, lượng bốc hơi và lượng mưa để quyết định, phương pháp tưới có thể là tưới bề mặt hoặc tưới nhỏ giọt,… mỗi lần bón phân cần phải tưới nước để phân có thể hoà tan tạo điều kiện cho cây hấp thụ tốt hơn.
– Cắt tỉa tạo hình
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ chưa mang quả: Việc cắt tỉa được tiến hành ngay từ khi trồng. Để có được dạng hình hợp lý (hình bán cầu), cần thực hiện theo các bước sau:
Tạo cành cấp 1: Khi cây con đạt chiều cao 45 – 50 cm, cần bấm ngọn để tạo cành cấp 1. Chỉ để lại 3 – 4 cành cấp 1 phân bố tương đối đều về các hướng. Các cành cấp 1 này thường chọn  cành khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 – 10 cm trên thân chính và tạo với thân chính một góc xấp xỉ 450 – 600 để khung tán đều và thoáng.
Tạo cành cấp 2: Khi cành cấp 1 dài 25 – 30 cm, ta bấm ngọn để tạo cành cấp 2. Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 3 cành cấp 2 phân bố hợp lý về góc độ và hướng.
Tạo cành cấp 3: Cành cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm sau. Các cành này phải khống chế để chúng không giao nhau và sắp xếp theo các hướng khác nhau giúp cây quang hợp được tốt.
+  Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ mang quả
Cắt tỉa sau thu hoạch: Được tiến hành sau khi thu hoạch quả. Cắt tỉa tất cả các cành sâu bệnh, cành chết, cành vượt, những cành quá dày, cắt tỉa bớt cành cấp 1(nếu số cành cấp 1/cây quá dày) sao cho cây có bộ khung tán cân đối. Đối với cành thu, cắt bỏ những cành yếu, mọc quá dày.
Cắt tỉa vụ xuân: Được tiến hành vào giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 hàng năm: Cắt bỏ những cành xuân chất lượng kém, cành sâu bệnh, cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, dầy, dị hình.
Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành từ tháng 4 đến hết tháng 6: Cắt bỏ những cành hè mọc quá dày hoặc yếu, cành sâu bệnh, tỉa bỏ những quả nhỏ, dị hình.
– Bón phân
Bón phân cho bưởi Diễn tuỳ thuộc vào tuổi cây và sản lượng hàng năm, nền đất cụ thể. Cây từ 1- 3 năm sau khi trồng (cây chưa có quả – giai đoạn kiến thiết cơ bản). Mỗi năm bón 4 lần vào tháng 2, tháng 5 tháng 8 và tháng 11. Lượng phân bón ở mỗi lần như sau:
+ Đợt bón tháng 2: Bón 100% phân hữu cơ + 40% đạm + 40% kali
+ Đợt bón tháng 5: 30% đạm + 30% kali
+ Đợt bón tháng 8: 30% đạm + 30% kali
+ Đợt bón tháng 11: 100% lân + 100% vôi
Lượng bón mỗi cây:
Năm trồng Phân hữu cơ (kg) Đạm urê (gam/cây) Lân supe (gam) Kaliclo rua (gam) Vôi bột (kg)
Năm thứ 1 30 300 500 110 1
Năm thứ 2 30 500 800 330 1
Năm thứ 3 50 860 1.200 460 1
Trong thời kỳ cho quả, lượng phân bón được thiết lập dựa trên năng suất của vụ trước. Có thể tham khảo bảng hướng dẫn sau:
Năng suất thu hoạch vụ trước Lượng bón
Phân hữu cơ (kg/cây) Đạm Urê (g/cây) Lân Supe (g/cây) Kaliclorua (g/cây)
20 kg/năm 30 650 830 410
40 kg/năm 1.100 1.400 680
60 kg/năm 50 1.300 1.700 820
100 kg/năm 1.750 2.250 1.090
120 kg/năm 70 2.200 2.800 1.360
 
Thời vụ bón: Toàn bộ lượng phân được chia làm 3 lần bón trong năm.
Lần 1: Bón  thúc hoa: (tháng 2): 40% đạm urê + 30%  kaliclorua
Lần 2: Bón thúc quả: (tháng 4 – 5): 20%  đạm urê + 30% kaliclorua
Lần 3: Bón sau thu hoạch: (tháng 11 – 12): 100% phân hữu cơ  + 100% phân lân + 40%  đạm urê, 40%  kaliclorua.
Cách bón:
Bón phân hữu cơ: đào rãnh xung quanh cây theo hình chiếu của tán với bề mặt rãnh rộng  30 – 40 cm, sâu 20 – 25 cm, rải phân, lấp đất và tưới nước giữ ẩm. Hoặc có thể đào 3 rãnh  theo hình vành khăn xung quanh tán để bón, năm sau bón tiếp phần còn lại.
Bón phân vô cơ: khi đất ẩm chỉ cần rải phân lên mặt đất theo hình chiếu của tán cách xa gốc 20 – 30 cm, sau đó tưới nước để hoà tan phân. Khi trời khô hạn cần hoà tan phân trong nước để tưới hoặc rải phân theo hình chiếu của tán, xới nhẹ đất và tưới nước.

4. Một số biện pháp chăm sóc khác

* Biện pháp kích thích ra hoa
Khoanh vỏ: vào cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi lá đã thành thục, chọn những cây sinh trưởng khoẻ, lá xanh đen tiến hành khoanh vỏ. Khoanh toàn bộ số cành cấp 1. Phương pháp là dùng dao sắc khoanh bỏ hết lớp vỏ đến phần gỗ với chiều rộng vết khoanh 0,2 – 0,3 cm theo hình xoắn ốc 1,5 – 2 vòng, tuyệt đối không dùng liềm, cưa. Xử lý thuốc trừ nấm bệnh cho vết khoanh.
* Biện pháp tăng khả năng đậu quả
+ Trước khi nở hoa: dùng các loại phân bón lá: Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông (theo chỉ dẫn trên bao bì) phun 2 lần, lần 1 khi mới xuất hiện nụ, lần 2 cách lần 1 là 15 ngày.
+ Sau khi đậu quả: khi quả non có đường kính 1 – 2 cm, phun Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông 2 – 3 lần với nồng  chỉ dẫn, các lần phun cách nhau 10 – 15 ngày.

5. Một số loại sâu bệnh hại chính 

Trong điều kiện cụ thể tại Đầm Hà, cần lưu ý phòng trừ các đối tượng sâu bệnh hại sau:
* Sâu hại Bưởi
• Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella):
– Đặc điểm gây hại: 
Phá hoại ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3 – 4 năm đầu mới trồng. Trên cây tập trung phá hoại thời kỳ lộc non, nhất là lộc xuân. Trưởng thành đẻ trứng vào búp lá non, sâu non nở ra ăn lớp biều bì lá, tạo thành  đường ngoằn ngèo, có phủ sáp trắng, lá xoăn lại, cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất từ tháng 2 đến tháng 10).
– Phòng trừ: Phun thuốc diệt sâu 1 – 2 lần cho mỗi đợt lộc non bằng: Decis 2,5EC 0,1 – 0,15%; Trebon 0,1 – 0,15%; Polytrin 50EC 0,1 – 0,2%.
• Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori):
– Đặc điểm gây hại:
Con trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.
– Phòng trừ:
+ Bắt diệt trưởng thành (Xén tóc)
+ Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non
+ Sau thu hoạch (tháng 11 – 12)  quét vôi vào gốc cây để diệt trứng
+ Phun các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu.
• Nhện hại:
– Đặc điểm gây hại:
+ Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vùng tròn  lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
+ Nhện trắng (Polyphagotarsonemus latus): Phát sinh chủ yếu ở trong những thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.
– Phòng trừ: Để chống nhện (nhện đỏ và nhện trắng) dùng thuốc Comite, Ortus 50EC, Pegasus 250 pha nồng độ 0,1 – 0,2% phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun kép 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày bằng những  thuốc trên hoặc phố trộn 2 loại với nhau hoặc với dầu khoáng trừ sâu.
• Rệp hại: Chủ yếu hại trên các lá non, cành non, lá bị xoắn rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.
– Đặc điểm gây hại: 
+ Rệp cam: Chủ yếu gây hại trên các cành non, lá non. Lá bị xoăn, rộp lên. Rệp tiết ra chất nhờn (gọi là sương mật) hấp dẫn kiến và nấm muội đen.
+ Rệp sáp (Planococcus citri): Trên mình phủ 1 lớp  bông hoặc sáp màu trắng, hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Những  vườn cam hoặc cây cam ở gần ruộng mía thường hay bị từ mía lan sang.
– Phòng trừ: Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon pha với nồng độ 0,1 – 0,2%  phun 1 – 2 lần ở thời kì lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
* Bệnh hại bưởi
• Bệnh loét (Xanthomonas campestris)
Đặc điểm gây hại: Bệnh gây hại ở thời kì vườn ươm và cây mới trồng 1 – 3 năm, ở thời kỳ cây cho thu hoạch bệnh gây hại cả trên lá bánh tẻ, cành, quả non. Trên lá thấy xuất hiện các vết bệnh không định hình, mới mầu xanh vàng, sau chuyển thành màu nâu xung quanh có quầng vàng. Gặp điều kiện ẩm ướt gây thối rụng lá, gặp điều kiện khô gây khô giòn vết bệnh làm giảm quang hợp. Gây hại nặng trong điều kiện nóng, ẩm (vụ xuân hè).
• Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk)
Triệu chứng gây hại: Vết bệnh thường có mầu nâu nhạt nhô lên khỏi bề mặt lá. Có thể lốm đốm hoặc dày đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi, gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ lở, màu vàng hoặc nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết. Bệnh đặc biệt gây hại nặng trong điều kiện nống và ẩm ( vụ xuân hè).
– Phòng trừ:
+ Cắt bỏ lá bệnh, thu gom đem tiêu huỷ
+ Phun thuốc: Boocđo 1 – 2% hoặc thuốc Kasuran 0,2%.
– Cách pha thuốc boocđô (pha cho 1bình 10 lít):
+ Dùng 0,1 kg Sunfat đồng + 0,2 kg vôi đã tôi (nồng độ 1/100), nếu nồng độ 2% thì lượng sunfat đồng và vôi tăng gấp đôi.
+ Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat, 3 lít còn lại pha với vôi, lọc bỏ cặn bã, sau đó lấy dung dịch đồng loãng đổ vào nước vôi đặc vừa đổ vừa quấy cho tan đều sẽ được dung dịch boocđô.
• Bệnh chảy gôm (Phytophthora citriphora):
– Đặc điểm gây hại:
Bệnh thường phát sinh ở phần sát gốc cây cách mặt đất khoảng 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ và rễ.
Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ.
Bệnh nặng lớp vỏ bị hại thối rữa (giống như bị dội nước sôi) và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong có màu đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại, cây có thể bị chết ngay, còn bị một phần thì cây bị vàng úa, sinh trưởng kém, bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rẽ cũng bị thối.
– Phòng trừ:
Đẽo sạch lớp vỏ và phần gỗ bị bệnh, dùng Boocđô 2% phun trên cây và quét trực tiếp vào chỗ bị hại, nếu bệnh đã lan xuống rễ phải đào chặt bỏ những rễ bị bệnh rồi xử lý bằng boocđô.
Có thể dùng các loại thuốc khác như Aliette 80NP, Benlat C nồng độ 0,2 – 0,3% để phun và xử lý vết bệnh.
• Bệnh Greening:
– Đặc điểm gây hại: Cây có múi nói chung và bưởi nói riêng có thể nhiễm bệnh Greening vào bất kỳ giai đoạn nào từ  thời kỳ vườn ươm tới khi cây 10 năm tuổi. Tuy nhiên, bưởi ít nhiễm bệnh Greening hơn các giống cam quýt khác. Triệu chứng cho thấy: trước khi những lá non trở thành mầu xanh thì trở nên vàng, cứng lại và mất mầu. Mô giữa các gân lá chuyển xanh vàng hoặc hơi vàng và có đường vân. Đầu tiên các đọt và lá non bị bệnh sâu đó có thể biểu hiện trên cả tán. Cùng thời gian đó  lá xanh và lá già chuyển xang mầu vàng từ sống lá và gân lá. Các lá bị nhiễm bệnh có thể  bị rụng sớm, trong một vài tháng hoặc và năm tất cả các cành cây bị khô đi và tàn lụi.
– Phòng trừ:
+ Sử dụng cây giống sạch bệnh
+ Trồng sen ổi để xua đuổi rày chổng cánh.
+ Phun thuốc phòng trừ môi giới truyền bệnh (Rầy chổng cánh)
+ Cắt bỏ tất cả các cành bị bệnh đem đốt
+ Bón phân cân đối tăng sức đề kháng và chống chịu của cây
• Các bệnh do virus và viroid: Trên bưởi còn 2 loại bệnh khá nguy hiểm gây hại: bệnh vàng lá (do virus Tristeza gây hạ) và bệnh Exocortis (do viroids gây hại). Các bệnh này không chữa trị được bằng các loại thuốc hoá học như trên mà phải phòng trị bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, bắt đầu từ khâu nhân giống sạch bệnh tới các kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ môi giới truyền bệnh vv…

6. Thu hoạch và bảo quản

– Thời điểm thu hoạch: Thu hoạch khi vỏ quả chuyển từ màu xanh chuyển xang mầu vàng;
– Yêu cầu điều kiện ngoại cảnh khi thu hái: Thu hoạch quả vào những ngày trời tạnh ráo, thu hoạch vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát, tránh thu hoạch vào giữa trưa hoặc trời quá nóng.
– Kỹ thuật thu hái: Cần phải có thang chuyên sử dụng cho thu hoạch quả và sử dụng kéo để cắt chùm quả sau đó lau sạch, phân loại, cho vào thùng hoặc sọt tre có lót giấy hoặc xốp, để nơi thoáng mát và đem đi tiêu thụ.

Khắc Phục Tình Trạng Bưởi Diễn Không Đậu Quả

Với việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật như trên, cây bưởi sẽ khỏe mạnh, sạch bệnh, tích lũy dinh dưỡng hồi phục cho cây, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt, ra hoa, đậu quả cho vụ bưởi năm sau.

Do diễn biến thời tiết phức tạp làm xáo trộn sinh lý bình thường của cây bưởi, cho nên mặc dù bưởi ra hoa rất nhiều nhưng cơ bản là các chùm hoa tại các cành chỉ nhỏ như hoa chanh. Loại hoa này hầu như rụng hết và không thể đậu quả, dù gặp thời tiết thuận lợi. Trước thực trạng mất mùa của bưởi Diễn, căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm của các hộ trồng bưởi lâu năm, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã khuyến cáo tới các hộ trồng bưởi Diễn trong vùng tiếp tục chăm sóc cho cây bưởi để phục vụ cho mùa bưởi năm sau.

Cắt tỉa cành, tạo tán

Một trong những yếu điểm của các nhà vườn trồng bưởi Diễn trong nhiều năm qua là mật độ trồng quá dày; cây năm thứ 5, thứ 6 đã chạm tán; năm thứ 8, thứ 9 đã đan cành vào nhau, tạo nên sự cạnh tranh dinh dưỡng, ánh sáng quyết liệt, ảnh hưởng đến năng suất. Hầu hết các cây này có nhiều cành tăm, cành vượt, cành vô hiệu không thể có quả. Các nhà vườn nên có kế hoạch cắt tỉa các cành này, tạo thông thoáng cho cây. Nếu vườn dày quá có thể nhân cơ hội này loại bỏ những cây không đạt tiêu chuẩn về chất lượng, các cây còi cọc, mắc bệnh, tạo thông thoáng cho vườn, giảm sâu bệnh. Đây là biện pháp hết sức quan trọng để tạo cho cây bưởi khỏe, có môi trường tốt để sinh trưởng phát triển, tích lũy dinh dưỡng cho kỳ ra hoa đậu quả sang năm.

Phòng trừ sâu bệnh

Cây bưởi Diễn là cây dễ nhiễm các loại sâu bệnh như sâu vẽ bùa, nhện đỏ, xì mủ chảy gôm, loét… Nếu không có biện pháp phòng trừ tích cực, nhất là chán nản do không có thu hoạch thì cũng sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây bưởi trong năm tới. Tích cực áp dụng biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp (IPM) cho cây bưởi, hạn chế dùng thuốc bảo vệ thực vật, khi dùng phải đảm bảo 4 đúng (đúng thuốc, đúng cách, đúng thời điểm và đúng liều lượng) để vừa đạt hiệu quả cao trong phòng trừ và chi phí đầu tư.

Chăm bón hợp lý

Do cây bưởi năm nay không mang quả nên việc chăm bón cho cây cũng nên chú ý, nên bón phân vừa phải, cân đối, chú ý tăng lượng kali, lân, không để cây quá tốt, thừa đạm, vừa tốn kém, vừa ộp quả, quả quá to cho vụ tới.

Thử nghiệm phương thức ghép quả

Bà con nông dân có thể thử nghiệm phương pháp ghép quả. Năm 2008 đã xuất hiện kỹ thuật ghép quả bưởi tại vườn bưởi anh Hải ở Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội. Cách làm như sau: Lấy quả bưởi ở những cây bưởi sai quả, to bằng quả ổi hoặc nắm tay với phương pháp ghép đoạn, ghép vào cây bưởi không có quả. Phương pháp này thường áp dụng ghép cho cây bưởi Diễn cảnh trồng trong chậu để bán Tết.

Với việc thực hiện đồng bộ các biện pháp kỹ thuật như trên, cây bưởi sẽ khỏe mạnh, sạch bệnh, tích lũy dinh dưỡng hồi phục cho cây, tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt, ra hoa, đậu quả cho vụ bưởi năm sau.

Trồng Và Chăm Sóc Cây Cam Xoàn

Cam xoàn là giống cây ăn trái được trồng nhiều và lâu đời ở một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long.

 Cây sinh trưởng và phát triển mạnh, thích nghi với nhiều vùng đất cao ráo thoát nước tốt, đất không quá nhiễm phèn- mặn. Cây chống chịu khá tốt với bệnh vàng lá Geenning và một số dịch hại khác. Sau 30 tháng trồng cây cho trái. Từ khi ra hoa đến khi thu hoạch khoảng 8 tháng. Dạng trái cam xoàn giống như cam mật. Da màu xanh khi chín ngã màu vàng chanh đậm.

Có đặc điểm phân biệt trái Cam Xoàn và Cam Mật là dưới dáy trái Cam Xoàn có 1 vòng tròn đường kính 1- 1,5 cm và xung quanh cuống trái có 1 quần tròn hơi nhô lên nên có người gọi là Cam Xoàn 2 đồng tiền. Cam xoàn có cơm màu vàng nhạt, vị ngọt đậm, mùi thơm, trọng lượng trung bình 250 – 300gram. Để thành công trong việc trồng cam xoàn cần tuân thủ qui trình kỹ thuật sau:

I. Kỹ thuật trồng:

1. Giống: Phải chọn đúng giống, không bị bệnh Tristeza và bệnh vàng lá Greening. Nên chọn cây cam xoàn ghép trên gốc Voka hay gốc cam mật, cây sinh trưởng, phát triển nhanh, tuổi thọ lâu dài hơn trồng cây chiết cành.

2. Mật độ: Nên trồng dầy và khống chế chiều cao của cây để dễ sử lý sâu bệnh, kiểm soát sự ra hoa trái và nâng cao sản lượng, nhanh chống thu hồi vốn. cự ly trồng 3X3,5m/ cây.

3. Mô hốc trồng:

a. Vùng đất trũng: Vùng đất bãi bồi, ven sông rạch phải lên liếp cao ráo, và có đê bao chắc chắn, chủ động cấp thoát nước.
Mỗi mô có thể bón 0.5- 1kg vôi bột, 0.5kg phân lân, 10kg phân chuồng hoai mục.

b. Đất miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên, Nam Trung bộ cao ráo thoát nước có thể làm hốc trồng có kích thước 0,5 x 0,5 x 0,5m. Bón 0,5m vôi bột 0,3kg phân Lân, 10kg phân hữu cơ hoai mục, nếu :

– Đất thấp bằng phẳng vun mô đường kính 1m, cao 0,4 – 0,6m.

– Đất nghiêng thoát nước tốt, làm mô thấp hay trồng ngang bằng mặt đất.

4. Trồng :

– Đào một hóc nhỏ giữa mô. Rọc đáy túi đựng bầu đặt cây vào vị trí, rọc đường xuôi từ trên xuống để tháo bao đựng bầu dễ dàng. Lấp đất giữ chặt bầu cây.

– Cắm cọc, cố định cây (cột cây bằng dây nilon).

II. Chăm sóc:

1. Hạn chế ánh sáng: Nên trồng cây họ đậu xen vào vườn như so đủa, bình linh, cây vông… vừa hạn chế giông gió vừa cho bóng râm cho vườn cây 20- 30%..

2. Giữ ẩm: Đậy tủ gốc vào mùa khô để giữ ẩm. Ở vườn cây có múi nông dân giữ cỏ cao 30- 40cm nhằm hạn chế nắng nóng vào mùa khô và tăng cường thoát nước trong đất vào mùa mưa lũ.

3. Tưới tiêu: Cung cấp nước cho cây đều độ.

4. Tỉa cành tạo tán:

– Hạn chế cành vượt.

– Loại bỏ các cành sâu bệnh già cõi, giúp cho cây thông thoáng, có dạng đẹp, tăng khả năng quang hợp.

5. Bồi đất cho cây:

Trồng trên mô cao ráo, vào thời kỳ bón thúc cho cây nên bồi thêm bùn, đất khô dầy 2- 3cm xung quanh gốc cây.

6. Bón phân:

Cần tham khảo thêm tài liệu và kinh nghiệm bón phân thực tế ở vùng đất canh tác.

a. Phân hữu cơ : 5 – 10kg gốc/năm.

b. Phân bón hóa học: Ở đây ta sử dụng phân NPK 16-16-8

– Năm thứ nhất : Bón 200- 300g, chia làm 4-5 lần bón, vào giai đoạn lá già.

– Năm thứ hai : Lượng phân tăng gấp đôi, chia 3- 4 lần bón.

– Thời kỳ kinh doanh (cây từ 3 năm tuổi trở lên) : Bón 1- 1,5ký, chia ra 5 lần bón :

+ Bón phục hồi sau khi thu hoạch trái: Bón 1/5 lượng phân NPK, thêm 100g phân Urê và toàn bộ phân hữu cơ.

+ Làm trái (xiết nước 3 tuần) và cho nước trở lại: Bón 1/5 lượng phân NPK và 100- 150g phân Kali.

+ Đậu trái bằng ngón tay: Bón 1/5 lượng phân NPK

+ Quả đang lớn nhanh: Bón 1/5 lượng phân NPK, thêm100g Urê 150g, và 100g phân Kali.

+ Trước khi thu hoạch 1 tháng: bón 1/5 lượng phân NPK cò lại và thêm 150- 200g phân Kali.

7. Sâu rầy:

a. Sâu vẽ bùa : Là loại sâu hại thường xuyên vào giai đoạn cây ra lá non. Dùng thuốc nội hấp để phòng trị như : Sevin 80WP, Padan 95SP, Cymbush, Lannate, dầu DC. Tron Plus …

b. Rầy mềm : Chích hút nhựa trên chồi non hay mặt dưới lá non. Dùng thuốc : Bassa 50ND, Supracide 40EC, Polytrin 40EC, Trebon 10ND …

c. Nhện đỏ : Ấu trùng và thành trùng tập trung mặt dưới lá non hay trên vỏ trái để chích hút làm vỏ trái bị sần sùi. Dùng thuốc đặc trị nhện để phun như Danitol, Kelthan, Confidor, Comite, Rufast …

d. Rầy chổng cánh : Là đối tượng trung gian truyền bệnh vàng lá Greening gây hại có tính hủy diệt đối với các vườn cây có múi nhất là cam quít. Phòng trị :

– Trồng Nguyệt quới, Cần thăng, dây Tơ hồng xung quanh vườn để tập trung rầy chổng cánh sau đó định kỳ phun thuốc tiêu diệt.

– Dùng thuốc hóa học phun bảo vệ các đợt lá non như Applaud MIPC 25% BTN, Admire 50ND, Bassa, Trebon …

8. Bệnh:

a. Bệnh loét do vi khuẩn và bệnh ghẻ do nấm : Bệnh gây hại nặng vào mùa mưa. Phòng trị :

– Tiêu hủy cành lá gây bệnh.

– Phun các loại thuốc gốc đồng như : Cooper Zine, Coc 85, Bordeaux, Cocide, Kasumin,

b. Bệnh vàng lá Greening : Bệnh làm lá nhỏ lại, có màu vàng, các gân lá màu xanh, trở nên cứng, giống trường hợp bị thiếu kẽm, lá thường rụng sớm. Bệnh do vi khuẩn Liberobacter Asiaticum gây nên qua đường truyền từ rầy chổng cánh, hay mắt ghép, dụng cụ ghép, chiết … Phòng trị :

– Loại bỏ các cây bị nhiễm bệnh nặng trong vườn quả.

– Sử dụng thuốc hóa học diệt trừ rầy chổng cánh và bảo vệ chồi non lá non.

– Không mua giống trôi nổi, chỉ trồng các cây được sản xuất theo qui trình kỹ thuật nghiêm ngặt, bảo đảm không mang mầm bệnh.

c. Bệnh thối gốc cháy nhựa : Do nấm Phytopthora SP. Gây ra bệnh nặng cây có những đường mục dọc gây chảy mủ. bệnh gây hại ở rể, thân và trái. Phòng trị :

– Chọn gốc ghép có tính chống chịu.

– Trồng trên đất ráo, tránh gây vết thương ở vùng gốc và rể.

– Dùng các loại thuốc như Aliette 80 BHN, Ridomyl 72 WP, Metalaxyl … để bôi vào vết thương hay tưới vào gốc.

Nhện Đỏ Hại Cây Có Múi: Cam, Quýt, Bưởi

Nhện đỏ gây hại trên cam, quýt, chanh và nhiều loại cây trồng khác. Trên lá có những chấm nhỏ li ti, khi bị nặng, vết chấm lan rộng, lá có màu ánh bạc, sau đó có thể bị khô và rụng.

Trưởng thành có kích thước rất nhỏ, dài khoảng 0,30-0,35 mm, màu cam hay đỏ sậm, hình bầu dục tròn, trên cơ thể có nhiều lông cứng mọc từ u lồi đỏ rõ ràng.

Ấu trùng mới nở có màu vàng hoặc màu nâu nhạt. Trứng rất nhỏ, hình cầu, màu đỏ, phía trên có một cái cuống. Trứng được đẻ rải rác trên cả hai mặt lá hoặc trên trái. Thời gian sống của nhện kéo dài từ 10 –15 ngày. Nhện có thể gây hại trên nhiều bộ phận của cây như lá, trái và cành non.

Trên lá, khi bị gây hại làm cho lá bị biến dạng ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng của cây. Khi mật số cao, cả cành non cũng bị nhện đỏ tấn công, cành cũng trở nên khô và chết.

Trên trái, nhện thường sống tập trung ở phần cuống trái, đáy trái và trong các phần lõm của trái. Khi trái còn non nhện chích và hút dịch ở lớp biểu bì làm vỏ trái bị biến màu và các vết thương khô lại tạo nên những đốm sần sùi được nông dân gọi là da lu, da cám, ảnh hưởng đến vẻ đẹp của trái.

Nhện đỏ phát triển trong điều kiện khô hạn trong mùa nắng. Do có vòng đời ngắn nên thường mật số tăng lên rất nhanh và gây hại nghiêm trọng.

Thiên địch của nhện đỏ : Nhóm nhện thiên địch Euseius sp., Amblyseius sp. và bọ rùa Stethorus sp.

Biện pháp phòng trừ: Trong tự nhiên, nhện đỏ có rất nhiều thiên địch tấn công, do vậy cần sử dụng thuốc BVTV hợp lý để bảo vệ thiên địch. Tưới nước đầy đủ trong mùa nắng để làm tăng ẩm độ vườn.  Chú ý dùng khi dùng thuốc cần luân phiên thuốc để tránh nhện hại lờn thuốc. Có thể dùng các loại thuốc như Comite, Pegasus, Kelthane, Ortus, Nissorun, dầu khoáng DC- Tron Plus.

Chăm Sóc Cam, Quýt, Bưởi Sau Thu Hoạch

Cam, quýt, bưởi hay các cây có múi sau thu hoạch cần được chăm sóc, vệ sinh, cắt tỉa, phòng trừ sâu bệnh để cây tiếp tục phát triển và cho mùa bội thu sau.

– Tiến hành làm sạch cỏ dại, sau 25 – 30 ngày thu hoạch cắt tỉa các cành sâu bệnh, cành tược, khô héo, cành tăm hương, mọc không đúng hướng…

– Quét vôi vào gốc cây ngăn sự cư trú của sâu bệnh.

– Phòng trừ sâu bệnh bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp: bón phân đầy đủ, cân đối, kịp thời, bón đúng kỹ thuật, phun thuốc đúng lúc, đúng cách.

Với một số sâu bệnh hại như: sâu vẽ bùa, đục thân, sâu bướm, sâu nhớt, nhện đỏ, nhện vàng, nhất là bệnh vàng lá greening… phải thường xuyên theo dõi, quan sát phát hiện sớm để kịp thời ngăn chặn. Khi cây đã bị bệnh cần phải đào, đốt hủy, rắc vôi bột vào gốc cây bị hại.

Bón phân phục hồi và tưới nước: Đối với cây từ 3- 4 năm tuổi, bón 1 – 2kg AT1/gốc, cây 5- 6 năm tuổi bón 2- 3kg AT1/gốc, phân hữu cơ bón 20-50kg. Bón ngay sau khi thu hoạch, càng sớm càng tốt. Trước khi bón, đào đất chung quanh gốc tạo thành đường vành khuyên rộng 20-30cm, sâu 30-40cm theo đường chiếu vành tán cây, rải đều phân xuống và lấp đất lại.

– Thời kỳ kiến thiết (1-4 năm): Bón tập trung 1 đợt vào tháng 12 hoặc tháng 1 với lượng phân 20 – 25kg phân hữu cơ + 0,2kg sun phát đạm + 0,5kg super lân + 0,2kg kali sun phát.

– Vào thời kỳ thu quả: Bón 50kg phân chuồng + 1kg đạm + 1,2kg super lân + 0,5kg kali, chia ba lần bón:

+ Sau thu hoạch quả tháng 12 sang tháng 1: 50kg phân hữu cơ + 0,25kg super lân + 0,1kg kali.

+ Bón đón lộc xuân tháng 2 – 3: 0,6kg đạm + 0,6kg super lân + 0,25kg kali.

+ Bón thúc cành thu và nuôi quả tháng 6-7: 0,4kg đạm + 0,35kg super lân + 0,15kg kali.

– Cách bón:

+ Lần 1 (sau khi thu hoạch): bón theo vành mép tán, đào rãnh sâu 20cm, rộng 30cm. Các loại phân trộn đều cho vào rãnh lấp kín đất, tủ rơm giữ ẩm.

+ Bón thúc vào lần 2 và 3: trộn đều các loại phân hóa học rải đều trong vòng tán cây, với đảo sâu 4-5cm vùi đất lấp kín, tủ rơm rác giữ ẩm.

Bón phân xong tưới nước đều đặn, vừa phải cho phân tan để cây hấp thụ từ từ. Chú ý không nên tưới quá nhiều nước cho cây vì nếu thừa nước cây sẽ ra đọt non ảnh hưởng đến việc xử lý ra hoa.

– Cách tỉa cành và vệ sinh vườn : Cắt bỏ những cành già, cành sâu bệnh, cành vượt nằm bên trong tán, cành mọc sà dưới đất và cả những đoạn cành đã mang trái (dài 10-15cm). Cắt ngắn cỏ, chừa cỏ lại che phủ đất (hoặc che phủ bằng rơm rạ). Nếu trồng sát gốc cây thì dọn sạch cỏ, lá cây để mô được khô ráo. Cần tránh phủ sơ dừa sát gốc cây có múi để tránh lây lan bệnh Phytophthora. Các cành lá tỉa bỏ, trái hư, cỏ dại phải thu gom lại chôn lấp hoặc đốt bỏ.

– Nuôi dưỡng và bảo vệ : Định kỳ khoảng 10-15 ngày/lần, phun các chế phẩm HVP theo tỷ lệ: 30-10-10 (15g/8 lít nước) hoặc chế phẩm dưỡng lá (35ml/8 lít nước). Có thể pha chung với thuốc trừ sâu bệnh để phun xịt. Dưới gốc dùng vôi quét gốc, quét cao khoảng 1-1,5 m và rải vôi chung quanh các gốc cây, nhất là những cây bị bệnh. Nếu rễ cây bị tuyến trùng, rệp sáp tấn công có thể dùng Nokapd, Vimoca tưới vào gốc diệt, đồng thời pha thêm bột tốt rễ F.Bo để phục hồi bộ rễ nhanh, giúp cây sinh trưởng sung tốt trở lại.

Xử lý ra hoa

– Bón phân đón ra hoa, tạo mầm hoa: Trước thời điểm cho cây ra hoa 5-6 tuần, bón phân đón ra hoa (khoảng 200g DAP + 50KCL hoặc 400g AT 2/gốc 4-5 tuổi) và phun chế phẩm giúp cây tạo mầm hoa (phun F.Bo: 15g/8 lít, phun hai lần, cách nhau 4-5 ngày) trước khi ngưng tưới một tuần.

– Bắt cây cảm ứng ra hoa: Ngưng tưới và rút nước mương (nếu có) khoảng 2-4 tuần cho đến khi cây vừa “xào lá” (lá hơi héo vào buổi chiều nhưng sáng mai không tươi lại hoàn toàn). Sau đó tưới nước đẫm lại ba ngày liền, ngày tưới hai lần. Ngày thứ tư thì tưới mỗi ngày/lần.

– Phun thuốc thúc ra hoa đồng loạt: Sau khi tưới nước lại 2-3 ngày, bộ lá tươi lại, pha 35ml RA HOA C.A.T + 15g F.Bo/8 lít phun sương đều tán cây và trong thân cây hai lần (5 ngày/lần) thúc ra hoa đồng loạt, sau khi cây ra đọt non tưới hai ngày/lần.

Để Cây Bưởi Liên Tiếp Bội Thu

Khi cây phát lộc cần loại bỏ ngay những lộc nhỏ và thường xuyên kiểm tra, diệt sâu bệnh ngay từ khi chúng mới xâm hại

Bưởi sai quảMùa thu là mùa thu hoạch của bưởi, ta nên thu hoạch rộ trong thời gian từ 3-5 lần, hoặc có thể rút ngắn xuống 2-3 lần để tránh cho cây mẹ bị kiệt sức, giảm năng suất cho vụ tiếp theo. Nên sử dụng kéo cắt cành để thu hoạch từng quả một, không bẻ tước cành mang quả, gây mất nhiều nhựa và dễ nhiễm sâu bệnh (nhất là sâu đục thân).

Sau khi thu hoạch xong cần loại bỏ ngay những cành tăm, cành khuất tán, cành bị nhiễm dịch hại bằng kéo cắt cành để loại trừ hiện tượng tự ký sinh chất sống của cây mẹ, tập trung nhựa sống nuôi các cành chủ lộ sáng cho “bốc” hơn, sạch sâu bệnh và hạ thấp trọng tâm, giúp cây vững vàng hơn trước mưa to, gió lớn.

Sau đó tiếp tục bồi dục cho đất nền (bón đền quả) bằng cách kết hợp với xới xáo lớp đất dày 10-15cm dưới bóng tán, nhặt cỏ dại và đào rãnh hình vành khăn theo chu vi bóng tán sâu khoảng 30-40, rộng 35-45cm (tuỳ kích cỡ cây nhỏ, to); phơi ải đất đào lên sau 2-3 tuần, giúp đất bả và tiêu diệt mầm mống sâu bệnh có sẵn trong lòng đất. Tiếp theo là trộn lẫn với phân hữu cơ hoai mục, bùn khô hoặc xỉ than, vữa bả, theo tỷ lệ 4:4:1:1 theo khối lượng. Mỗi gốc từ 50-80kg, ấp vào rãnh, rải đều dưới bóng tán và giữ cho gốc thường xuyên ẩm để “nhử” rễ ăn ra và ăn lên.

Khi cây phát lộc cần loại bỏ ngay những lộc nhỏ và thường xuyên kiểm tra, diệt sâu bệnh ngay từ khi chúng mới xâm hại. Với những cây bưởi trưởng thành đã cho thu hoạch nhiều vụ, cần dùng nước vôi (hoà tan) quét vài ba lần vào gốc, vừa sạch bệnh vừa tăng độ phản xạ ánh sáng cho vườn.

Kỹ Thuật Trồng Và Chăm Sóc Giống Bưởi Da Xanh

Bưởi da xanh tuy mới xuất hiện nhưng đã thật sự trở thành một loại hoa quả đặc biệt mà ai cũng muốn thưởng thức, đồng thời đem lại tiềm năng phát triển kinh tế cho bà con.

I. Kỹ thuât trồng và chăm sóc

1. Trồng cây:

– Thời vụ trồng: 
có thể trồng quanh năm, tốt nhất trồng vào vụ xuân (tháng 2-4) vụ thu (tháng 8-10)

– Mât độ trồng: tuỳ thuộc vào chất đất và khả năng thâm canh.
+ Đất trồng bằng (phù sa): 6m x 7m+ Đất vườn, đồi núi (sỏi đá): 4m x6m

– Đào hố:
+ Đất phù sa hố đào (60cm x 60cm x 60cm) nếu nền đất thấp trũng khó thoát nước  có thể đắp ụ hoăc lên luống cao.
+ Đất đồi hố đào 80cm x 80cm x 80cm trồng theo kiểu lanh sấu (so le)

– Bón lót/1 cây:
Bón cho mỗi hố tuỳ thuộc vào độ phì nhiêu của đất.
Phân bón hữu cơ Đồng tâm xanh : 15_20kg.
Phân lân (supelân) 1kg,Kali sun fat 0,5kg,Vôi bột 1kg
Phần đất mặt đựơc trộn đều với phân và cho xuống đáy hố phần đất còn lại để trên mặt hố, gốc cao hơn mặt vườn từ 10_20cm (việc đào hố, bón lót phải được tiến hành trước khi trồng từ 1 – 2 tháng).

– Cách trồng: rạch bỏ bầu nilông, đặt cây vào hố lấp đất ngập bầu khoảng 2_3 cm. Nèn chặt đất xung quanh bầu , tạo mặt lõm từ 3_5cm xung quanh gốc để  tưới.
Cắm coc va buộc dây mềm để cố định cây, tưới nước và phủ cỏ khô hoặc rơm rạ để giữ ẩm cho cây.

2. Chăm sóc cây sau khi trồng

– Thường xuyên giữ ẩm cho cây. Tưới phân bón lá Lay-O,Combi-5,komix….và bón định kỳ thường xuyên 1-2 lần/tháng.
– Cắt tỉa tạo tán 50cm để cành cấp I, 30cm để cành cấp II và 20cm để cành cấp III. Tạo cho cây có bộ khung cành , tán rộng tốt cho quang hợp.
– Bón cho cây chưa có quả, trước mỗi đợt lộc bón một lần thường năm có 3 đợt lộc vào mùa xuân _ hạ _thu.
– Khi cây có quả: bón 4 đợt/ năm:
+ Thời kỳ sau thu hoạch quả, bón phân hữu cơ + lân  100%, đạm 20% vôi 100%
+ Thời kỳ chuẩn bị ra hoa bón đạm, ka li,ZinC
+ Thời kỳ hạn chế dụng quả giúp quả lớn nhanh bón đạm, kali, boron.
+ Thời kỳ trước thu hoạch 1 tháng bón kali,sungar.

II. Sâu bệnh hại cây.

1. Sâu hại:

+ Sâu vẽ bùa: phá hoại mạnh ở thời kỳ cây còn nhỏ, chúng gây hại trên lá non,cành non, tạo vết thương cho cây, bệnh loét xâm nhập và phát triển , thời gian gây hại chủ yếu từ tháng 3 đến tháng 11 trong năm.
– Phòng trừ : dùng thuốc Polytin 0.2%, slrespa 0.2%

+ Sâu đục thân cành: dùng thuốc  O fatox 0.1%, Symi sidin 0.2% phun và bơm vào lỗ sâu đục.
Phòng trừ: Vệ sinh vườn, quét vôi gốc, bắt diệt xén tóc.

+ Nhện đỏ và nhện trắng gây hại: 
nhện gây nám vỏ quả xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 5, nhện gây hại trên lá xuất hiện từ tháng 2 đến tháng 11.
– Phòng trừ nhện:dùng kenlan. Secgai son, sec ron, pega sus.

+ Sâu bướm phượng: thời gian xuất hiện từ tháng 3 đến tháng 10
– Phòng trừ: phun mỗi đợt lộc bằng thuốc Sup racide 0.2%.

2. Bệnh hại:

– Bệnh thán thư: Thường xuyên thăm vườn, phát hiện bệnh sớm sử dụng một trong các loại thuốc sau (phun khi bệnh mới chớm): Mancozeb 80WP, Daconil 75WP, Antracol 70WP,…
– Bệnh loét lá và bệnh sẹo: gây hại trên cành, lá, quả: dùng Boocdo
– Bệnh chảy gôm: dùng Boocdo, Benlat , Alliette
– Bệnh do vi rút – Bệnh Greening(gân xanh lá vàng) phòng trừ bằng cách trồng cây sạch bệnh, diệt rày, các loại rệp bằng thuốc Bisp Shepas.

Bưởi da xanh đuợc khuyến khích nên sử dụng phân hữu cơ thay cho phân hóa học sẽ giảm đuợc nhiều loại sâu bệnh và một lượng phân thuốc hóa học đáng kể ,chỉ sử dụng các biện pháp hóa học khi thật sự cần thiết

Kinh Nghiệm Trồng Bưởi Năm Roi Cuống Xéo

Trước khi trồng, chuẩn bị rơm, rác mục, phân chuồng hoai và đất phù sa khô tán nhuyễn trộn lẫn với một ít thuốc sát trùng, sau đó cho tất cả vào hố

Trong những ngày cận Tết Nguyên đán, chúng tôi đến vườn bưởi năm roi của anh Phan Văn Dũng, 51 tuổi, ở Ấp Phú Thành, xã Quới Thành, huyện Châu Thành, Bến Tre, chúng tôi bắt gặp thương lái đang vội vã chuẩn bị cho chuyến hàng cuối cùng trong năm về TP.Hồ Chí Minh. Trên mảnh vườn 0,5 ha của mình, anh cựu chiến binh Nguyễn Thành Phan chỉ trồng cây bưởi năm roi cuống xéo. Năm nay, vườn bưởi nhà anh Dũng đã được 4 năm tuổi. Những trái to treo lủng lẳng, đều đặn và vàng mơ, trông rất bắt mát, đã phần nào lý giải vì sao giống bưởi này bán rất chạy trong những ngày Tết.

Anh Dũng là người gốc ở Quận 6 TP. Hồ Chí Minh. Những ngày trong quân ngũ, theo bước chân rày đây mai đó khắp các miền quê, bắt gặp những vườn cây ăn trái của bà con, anh Dũng rất mê thích và ấp ủ trong lòng. Sau khi trở về đời thường vào năm 1976, anh đã bén duyên với một cô gái ở xứ dừa Bến Tre. Với tấm lòng say mê nông nghiệp, mà sống ở thành phố thì không có đất “dụng võ”, nên vợ chồng khăn gói về quê Bến Tre.

Chân ướt, chân ráo, nhìn miếng vườn tạp của cha mẹ vợ cho, anh Dũng quyết định chuyển đổi cây trồng. Anh lặn lội đi tham quan những nhà vườn đã thành công để học hỏi, và rồi cuối cùng quyết định chọn mua cây bưởi năm roi cuống xéo ở huyện Bình Minh, Vĩnh Long, về trồng. Anh Dũng cho biết: “Giống bưởi này có chất lượng ngon không thua gì bưởi da xanh, nhưng lại có ưu điểm là khi chín có màu vàng trông rất bắt mắt.”

Về cách trồng, đầu tiên đắp mô cao khỏi mặt đất 0,2m, đào hố vuông mỗi cạnh 0,8m, sâu 0,4m, các hố cách đều nhau 3m. Trước khi trồng, chuẩn bị rơm, rác mục, phân chuồng hoai và đất phù sa khô tán nhuyễn trộn lẫn với một ít thuốc sát trùng, sau đó cho tất cả vào hố. Đến đầu mùa mưa, đưa cành chiết vào hố trồng, dùng cây chống đỡ và cột chặt nhánh chiết nhằm giữ cho cây khỏi lung lay, giúp cho rễ non dễ bung bám đất. Sau khi đã trồng nhánh chiết xong, anh Dũng bắt đầu chọn cây chuối cao tàn và rễ ít trồng xen rải thưa trong vườn. Cây chuối sẽ tạo bóng râm che mát cây bưởi lúc còn nhỏ vào mùa nắng. Sang năm thứ 3, cây chuối sẽ được phá bỏ hoàn toàn để cho cây bưởi được thông thoáng, bung tàn.

Về cách chăm sóc, để tránh cho cây bưởi khỏi bị mất nước, cứ 2 hoặc 3 ngày anh Dũng tưới nước 1 lần. Sau đó, anh vô phân theo định kì 4 tháng 1 lần, chủ yếu là phân chuồng hoai và tưới nhữ thêm NPK 20-20-0 theo công thức 1 muỗng canh cho 10 lít nước tưới vào gốc, sáng hôm sau tưới xả. Cũng theo định kỳ như trên, anh Dũng phun thêm phân bón lá giúp cho bưởi phát triển nhanh. Trong thời gian chăm sóc cây bưởi, anh Dũng luôn luôn theo dõi cây để kịp thời phun thuốc trừ sâu, rầy (nếu có sâu vẽ bùa trên lá thì phun thuốc Confidor, còn rầy nhớt xuất hiện trên đọt non thì xịt Actara).

Để trái bưởi chín đúng dịp Tết, theo kinh nghiệm của anh Dũng thì, sau khi thu hoạch trái, tiến hành dọn tỉa cành, bón phân (phân chuồng, phân NPK-AT1) và tưới nước thường xuyên cho cây bắt phân. Sang tháng 2 âm lịch, ngưng tưới nước 1 tháng cho cây xào lá, rồi bón phân NPK-AT2 hơi đậm (mạnh tay), sau đó tiếp tục tưới nước trở lại. Sau 1 tháng, bưởi bắt đầu đâm bông kết trái. Khi trái bằng quả chanh, anh Dũng bón tiếp phân NPK-AT3 để nuôi trái. Theo anh Dũng, khi cây nuôi trái thì không nên rải phân đạm nhiều, vì nhiều phân đạm sẽ làm cho trái mất độ ngọt ăn không ngon. Nên rải kèm với kali. Thời gian bưởi ra trái, trong vườn nên treo rải rác thuốc Vizubon để diệt ruồi vàng (loại ruồi này hút nhựa trái gây ghẻ không bán được).

Năm vừa qua, tuy chưa cho trái rộ, nhưng vườn bưởi của anh Dũng cũng đã cho thu hoạch 1 tấn trái (giá 10.000đ/kg). Chắc chắn trong những năm tiếp theo, anh Dũng sẽ còn thu nhập cao hơn gấp nhiều lần.

Cho Bưởi Da Xanh Ra Trái Theo Ý Muốn

Khi lá trên cành già sắp ra đọt lá mới, tiến hành bón phân, liều lượng tuỳ tuổi cây. Tiến hành tỉa lá trên cành nhỏ mọc trong thân. Những cành tỉa lá sẽ ra hoa. Cành ở ngọn để nguyên không tỉa lá.

Thông thường, bưởi da xanh ra hoa ngoài tán lá, nhất là ở cây bưởi tơ. Trái đậu cành ngoài dễ suy cây, mặt khác trái bưởi bị nám nắng, da không đẹp, trái không lớn. Nếu để đúng vụ theo thời tiết, sẽ không có bưởi bán quanh năm. Để khắc phục những hạn chế trên, những người làm vườn ở vùng Chợ Lách (Bến Tre) đã có cách điều khiển cây bưởi da xanh ra trái theo ý muốn với quy trình sau: Khi lá trên cành già sắp ra đọt lá mới, tiến hành bón phân. Liều lượng tuỳ tuổi cây. Với cây bưởi 3 năm tuổi, cao 3,5- 4m, đường kính tán khoảng 3m, bón 200g phân NPK/gốc, bón rải đều trên mặt mô (không rải trên mặt liếp). Sau 5- 7 ngày tiến hành tỉa lá trên cành nhỏ mọc trong thân. Những cành tỉa lá sẽ ra hoa. Cành ở ngọn để nguyên không tỉa lá.

Đối với cây cho trái đợt đầu, sau 20 – 25 ngày, trên cành tỉa lá có xuất hiện rất nhiều mầm hoa và chồi non, Khoảng 15 ngày sau, hoa phun mạnh ra khỏi thân, (nếu tưới nước nhiều hoa sẽ ra sớm hơn). Cần giữ ẩm 60- 70%, đất ẩm, không ướt dính tay. Hoa lớn lên và đậu trái, để khoảng 3 trái/chùm.

Đối với cây đã và đang cho trái (có nhiều đợt trái), bón phân 3 tháng/lần, khi thấy chồi non của cành già tiến hành bón phân NPK, liều lượng 200g/cây (3 năm tuổi). Sau 5- 7 ngày, tiến hành tỉa bỏ lá ở cành nhỏ trong thân, tỉa 100% lá của 60% số cành trong thân. Sau 20- 25 ngày chồi non và chồi hoa sẽ phát triển, tiến hành tỉa trái khi trái có đường kính 4- 5cm.

Khi trái đạt trên 6 tháng, đến 8 tháng là bưởi chín hoàn toàn. Đối với bưởi da xanh, cả khi trái non vẫn có vị ngọt, nhưng phải ăn sau khi cắt khoảng 3- 4 tuần lễ. Do đó, khi cắt cần lưu giữ trái trên sàn (cách mặt đất) trong điều kiện thoáng mát, không có ánh nắng rọi trực tiếp. Bưởi da xanh có thời gian bảo quản rất lâu, khoảng 2- 2,5 tháng sau thu hoạch mà quả vẫn ngon.

Kinh Nghiệm Chăm Sóc Để Bưởi Sai Hoa, Đậu Quả

Sau khi thu hoạch quả cần tỉa cành, tạo tán. Loại bỏ cành tăm, cành vóng, cành bị sâu bệnh để lòng tán thông thoáng, cân đối.

Các giống bưởi quý ở miền Bắc như bưởi Diễn, Đoan Hùng… thường ra hoa, đậu quả vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 dương lịch. Đây là thời điểm giá rét và có mưa phùn, ảnh hưởng xấu tới quá trình thụ phấn. Xin giới thiệu kinh nghiệm chăm sóc để bưởi sai hoa, đậu nhiều quả của các nhà vườn ở huyện Hiệp Hoà (Bắc Giang).

Tưới đủ ẩm, bón phân thúc mầm hoa kịp thời: Lượng phân bón cho 1 cây khoảng 30 – 50kg phân chuồng hoai mục + 0,5 – 1kg urê + 0,5 – 1kg kali + 2 – 5kg lân. Có thể bón 5-10kg NPK (13:13:13) cho mỗi cây. Lượng phân bón cụ thể cho từng cây tuỳ thuộc vào cây nhỏ hay lớn, mức độ sai quả của năm trước.

Cách bón: Bón vào hốc, mỗi cây đào 4 hốc theo hình chiếu của tán cây. Kích thước: dài 60 – 80cm, rộng 20 – 30cm x sâu 30 – 40cm, chiều rộng của hốc hướng về phía gốc nhằm hạn chế rễ cây bị đứt nhiều, các loại phân được vùi sâu dưới đất 7 – 10cm.

Phun một số loại chế phẩm tăng đậu quả cho bưởi như:
 Vườn sinh thái; K-Humate; A-H502/503; N-H60/602; K-H70/702 khoảng 2 – 3 lần, 2 lần trước khi nở hoa 2 – 3 ngày; 1 lần sau khi đậu quả (kích thước quả bằng ngón tay), liều lượng theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Các chế phẩm này góp phần làm tăng sức sống của hạt phấn, bổ sung dinh dưỡng vi lượng, đa lượng tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và rét cho cây, hạn chế sự hình thành tầng rời làm rụng quả non lúc cây có trái.

Phun phòng bệnh mốc sương, chống thối nụ, hoa cho bưởi bằng các loại thuốc đặc hiệu sau: Ridomin gold 72WP; Aliette 80WG, phun ít nhất 2 lần, lần 1 trước khi nở hoa 5 – 7 ngày, lần 2 lúc quả có kích thước bằng đầu ngón tay. Nếu phun phòng bằng các loại thuốc trừ bệnh mốc sương đặc hiệu có tác dụng nội hấp này, gặp thời tiết bất lợi như mưa phùn kéo dài, bưởi vẫn sai hoa, nhiều quả.